
Các Bậc Hiểu Biết
Chúng ta có thể nói gì về sự Giác ngộ của Phật? Có gì để nói về
nó không? Theo một quan điểm nào đó thì câu trả lời phải là "Không!"
Thế nhưng những bằng chứng về đời sống của bản thân Đức Phật cho thấy hiển
nhiên cũng đáng để thử nói về nó. Người ta có thể trả lời "không" nếu
người ta suy tư về bản chất sự giác ngộ mà Đức Phật đã đạt được vào đêm lịch sử
ấy, vì từ trước đến giờ ai ai cũng hiểu rằng sự giác ngộ ấy là cái gì siêu vượt
lí trí, siêu vượt trí hiểu, và đó chính là lý do nó có một tác động biến đổi to
lớn đến thế, cả đối với Phật cũng như đối với những môn đệ nào của Ngài đã từng
đạt đến cùng sự giác ngộ ấy. Vì thế, vượt quá trí hiểu và những phương tiện
truyền đạt của trí hiểu tức là lời nói, bản chất sự giác ngộ của Đức Phật là
cái gì không thể diễn tả được. Vẫn có nhiều bài tường thuật hay tóm lược để mô
tả bản chất sự giác ngộ của Phật, nhưng rốt cuộc chúng cũng không diễn tả nổi
chính kinh nghiệm ấy - nếu không người ta đã có thể trở thành Phật mà chỉ cần
đọc một cuốn sách, hay nghe một bài chú giải Phật Pháp.
Cách phân biệt giữa các mức độ hiểu biết, mức độ trí tuệ này,
được nhìn nhận đầy đủ nơi truyền thống Phật giáo, và được triển khai như một
cuộc tiến lên dần thông qua ba bậc trí tuệ, hay prajñ. Trước hết có bậc
śrutamayỵ prajñ, là sự hiểu biết bằng việc lắng nghe, sruta. Đây là loại hiểu
biết ta có được sau khi nghe giảng giải bằng lời, hay đọc trong sách. Đây là
loại hiểu biết hời hợt nhất mà chúng ta có thể có. Đây là giai đoạn hiểu biết
mà chúng ta chấp nhận sự vật dựa trên sự tin tưởng vào lời nói của một người
khác.
Mức độ hiểu biết thứ hai (cintamayỵ prajñ) là trí tuệ hay, hiểu
biết nhờ suy tư (cint), sự sáng suốt mà người ta tạo cho bản thân mình thông qua
việc suy niệm liên tục về một đề tài đặc biệt nào. Cần nhớ rằng ba bậc tri thức
tạo thành một thang hiểu biết lên dần, có nghĩa là truyền thống Phật giáo coi
sự hiểu biết bằng suy tư thì cao hơn sự hiểu biết nhờ nghe một người khác hay
đọc một cuốn sách (điều này gợi ý rằng "đức tin" hiểu theo nghĩa tin
tưởng chấp nhận thụ động một chân lý là điều xa lạ đối với quan điểm Phật giáo,
và khi chúng ta gặp từ "đức tin" trong một văn mạch Phật giáo, chúng
ta phải hiểu nó theo một nghĩa khác với nghĩa chúng ta thường hiểu trong bối
cảnh thần học).
Mức độ hiểu biết thứ ba (bhvanmayī prajñ) là trí tuệ hay sự hiểu
biết được phát huy nhờ tham thiền (bhvan), dịch sát chữ là "làm cho trở
thành". Mức hiểu biết này là sự đồng hóa hoàn toàn một tập hợp các ý tưởng
để nó thấm sâu vào một con người. Đây là loại hiểu biết sâu nhất mà ta có thể
có - một sự hiểu biết không chỉ về một sự vật ta được nghe, cũng không phải chỉ
là một tư tưởng có trong đầu óc ta, mà là đưa sự vật hoàn toàn vào trong cái
tâm của ta, khiến cho mỗi suy nghĩ, hành động, hay tri giác đều luôn luôn được
thấm nhuần sự hiểu biết mới của mình. Hơn nữa, bậc hiểu biết cao nhất này chỉ
có thể đạt được nhờ tích cực tu luyện hành thiền mà thôi.
Tuệ Giác Của Đức Phật
Tuệ giác mà Đức Phật đạt được trong đêm Ngài Giác ngộ đã được
thuật lại trong nhiều kinh, và mỗi nơi nó lại được mô tả theo một kiểu khác
nhau. Tại một số nơi, nó được mô tả như một bậc đã tới ba bậc thần thông
(abhijñ) là thiên nhãn, sự nhớ lại các tiền kiếp và sự huỷ diệt những thành
kiến. Ở nơi khác, nó được mô tả như sự hiểu biết của Phật về pratỵtya-samutpda
(duyên sinh, hay tính lệ thuộc phổ quát của vạn vật). Ở nơi khác nữa, nó được
mô tả như là skandha (những yếu tố cơ bản tạo thành hiện hữu có điều kiện).
Trong khi đó, kinh Āriyapariyesana Sutta (16) lại có một kiểu mô
tả độc đáo của mình. Tất cả những điều này xác nhận có khó khăn nội tại trong
việc sử dụng những từ ngữ để tả lại kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật. Vì vậy,
có lẽ tốt hơn hết chúng ta nên nhìn vào những lời giảng mà truyền thống cho là
của Đức Phật giảng cho năm môn đệ tu khổ hạnh tại Vrṇasỵ. Những lời giảng này
được giữ lại trong hai kinh gọi là kinh Dhammacakkappavattana Sutta (17) và
kinh Anattalakkhaṇa Sutta (18). Tôi sẽ trình bày chung hai kinh này như một
toàn thể duy nhất.
A - Thế Giới Ba Đặc Tướng
(Lakxaịa)
Chúng ta có thể bắt đầu bằng một câu tóm gọn kinh nghiệm giác
ngộ của Đức Phật "nhìn thấy bản chất thật của sự vật". Đó cũng là ý
nghĩa của câu yath-bhūta-jñna-darśaṇa, "biết và thấy được sự vật nơi bản
chất thật sự của chúng", là câu thường gặp thấy trong nhiều kinh (sūtras).
Câu này có nghĩa là bản chất kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật
hệ tại chỗ Ngài thấy rõ thế giới và thân phận con người trong bản chất của nó,
và đồng thời ngầm hiểu rằng người không giác ngộ thì không thể thấy được như
thế. Vậy, Phật đã thấy thế giới thế nào? Truyền thống kể lại rằng Ngài thấy thế
giới và mọi sự trên thế giới gồm ba đặc tính hay nét đặc trưng, gọi là ba tướng
(lakṣaṇas). Ba đặc tướng này là vô thường (anitya), khổ não (duhkha) và vô ngã
(antman).
1) Vô thường (Anitya)
Đặc tướng hay đặc trưng thứ nhất là anitya, vô thường, có nghĩa
là mọi sự vật đều hữu hạn, không thường hằng, và mau qua chóng hết. Phật thấy
mọi sự vật trong vũ trụ đều có một khởi đầu và vì vậy tất yếu phải có một kết
thúc cho sự tồn tại của chúng. Đây là sự giác ngộ Ngài đạt được qua loại thần
thông (abhijñā) thứ nhất và thứ hai, cho rằng mọi chúng sinh đều có sinh có tử,
kiếp này tiếp nối kiếp khác. Điều này được phản ánh trong vũ trụ luận của Phật
giáo, theo đó có một vũ trụ của một không gian và thời gian vô hạn, trong đó vô
số các vũ trụ nối tiếp nhau xuất hiện rồi biến mất; điều này cũng được phản ánh
trong thế giới vi mô gồm những phân tử nhỏ nhất có thể hình dung ra và được
quan niệm không phải như những nguyên tử bất động (quan niệm này ngày nay cũng
bị các nhà vật lý loại bỏ), mà như là những mẫu năng lượng thay đổi không ngừng
qua sự tương tác. Hơn nữa, vũ trụ không bao gồm những miền đất được cư ngụ bởi
những con người bị kết án hay được giải cứu vĩnh viễn, mà bởi những tình trạng
tâm linh được khách thể hóa.
Nói cách khác, các tình trạng tâm linh chủ quan được kinh nghiệm
như là những thế giới khả giác mà dù chúng có thể tồn tại qua nhiều thế đại,
chúng cũng sẽ có ngày bị tiêu tan do sự cạn kiệt những động lực tâm linh đã tạo
ra chúng. Cá nhân mỗi người cũng sinh ra rồi chết đi, và khắp nơi đời sống phù
du này thay đổi ngày này qua ngày khác, lúc này qua lúc khác. Không có gì
thường hằng.
2) Khổ não (Duhkha) và Tứ
Diệu Đế
Điều này đưa chúng ta tới đặc tính thứ hai của sự tồn tại hữu
hạn, đó là sự đau khổ (dukkha). Khổ không chỉ là đặc tính thứ hai trong tam
tướng, nó còn là đề tài của một trong những giáo lý nổi tiếng nhất của Phật
giáo, giáo lý về Tứ Diệu Đế hay Bốn chân lý về sự Khổ (catvri ryasatyni) (19).
Chân lý thứ nhất trong bốn chân lý này là chân lý về sự khổ. Đây là sự chẩn
đoán của Đức Phật về căn bệnh của loài người.
Sau khi đã đề cập tới lakṣaṇa thứ nhất, chúng ta có thể hiểu cơ
sở của ý tưởng rằng hiện hữu giới tướng là một nguồn gây đau khổ. Điểm mấu chốt
ở đây không phải chỉ vì đời sống là khổ, cũng không phải đau khổ thì có thực
hơn là sung sướng, nhưng khổ và sướng trong cuộc đời luôn đi đôi với nhau. Ở
mức độ đơn giản nhất, điều này có nghĩa rằng một số niềm sung sướng luôn luôn
mang theo một kinh nghiệm hối tiếc hay ân hận.
Ăn một thanh kẹo sôcôla, uống một ly bia, hay hút một điếu thuốc
lá có thể làm ta khoan khoái lúc này, nhưng mỗi thứ đều mang theo một tiềm năng
gây đau khổ - có thể là béo phì, bệnh tim, hay chỉ choáng váng hay hơi thở có mùi.
Nhưng nó cũng có nghĩa là bất cứ kinh nghiệm sảng khoái nào, dù tốt lành đến
đâu, cũng gây ra một sự đau khổ nào đó khi kinh nghiệm sảng khóai đó chấm dứt ở
đây. Cuối cùng chúng ta có thể bắt đầu nhìn thấy mối tương quan giữa lakṣaṇa
này và lakṣaṇa trước, vì tâm lý mọi người luôn luôn mong muốn các kinh nghiệm
vui sướng kéo dài mãi, và chúng ta luôn cảm thấy thất vọng nếu một niềm vui
sướng, dù nhỏ bé đến đâu, bị lấy mất khỏi chúng ta. Vấn đề của loài người, theo
Đức Phật, chính là những lạc thú này luôn luôn bị lấy đi, vì theo đặc tính thứ
nhất đã nói trên, mọi vật đều là vô thường, mau qua chóng hết. Vì mọi điều này
sẽ qua đi, chúng là đau khổ (duhkha).
Điều này làm cho Phật giáo trở thành một tôn giáo bi quan chăng?
Dưới cái nhìn lịch sử, lời cáo buộc này mang tính chất mỉa mai, thay vì nhìn
vào Đức Phật, chúng ta phải tìm đến những hệ thống của những người theo phái
tất định gọi là Ājỵvakas, và thậm chí của giáo lý chính thống Bà La Môn để gặp
thấy quan điểm thực sự bi quan về thân phận con người. Vì chính ở đó chúng ta
gặp thấy sự chấp nhận hoàn toàn số phận của mỗi người trong cuộc đời, một thứ
thuyết định mệnh đạt tột đỉnh trong lời dạy của kinh Bhagavad Gỵt, trong đó
chúng ta được dạy rằng mỗi người phải thi hành bổn phận của mình trong cuộc đời
mà không cần nghĩ gì đến những hậu quả của các hành động đó. Nhưng nếu chúng ta
nhìn vào bài giảng đầu tiên của Phật, trong đó chứa đựng đầy đủ giáo huấn của
Ngài về đề tài khổ (duhkha), chúng ta có thể thấy Ngài trình bày cả Bốn Chân Lý
chứ không chỉ có một. Trong khi Ngài xác định vấn đề đau khổ trong chân lý thứ
nhất, và nguyên nhân gây ra đau khổ trong chân lý thứ hai (là sự ham muốn và
giận ghét gây ra do ảo tưởng tâm linh sâu xa của chúng ta), thì chân lý thứ ba
lại khẳng định vững vàng rằng chúng ta có thể vượt qua sự đau khổ vốn là đặc
tính của sự hiện hữu giới hạn của chúng ta. Hơn nữa, chân lý thứ tư bắt đầu mô
tả những phương thế nhờ đó mỗi người chúng ta có thể thực hiện được sự biến
đổi. Phương thế này chính là Bát Chánh Đạo (ryṣṭṅgikamrga), con đường thực hành
để dẫn chúng ta đi từ thế giới của đau khổ sang thế giới của kinh nghiệm tự do
và hạnh phúc.
3) Vô ngã (Antman) và
Duyên sinh (Pratỵya-Samutpda)
Để hiểu đặc tính thứ ba là Vô ngã (Antman), chúng ta phải nhớ
rằng tôn giáo Bà La Môn ở thế kỷ V trước CN. tin rằng mỗi chúng sinh đều có một
tman, bản ngã, thanh tịnh, tế nhị, vĩnh cửu, và truyền từ kiếp này sang kiếp
khác. Rõ ràng là, theo đặc tính thứ nhất của ba đặc tính lakṣaṇas, lý thuyết
này bị đưa ra tranh cãi. Thực vậy, chỉ cần lý luận chặt chẽ là có thể rút ra
đặc tính thứ ba, vô ngã (antman), từ đặc tính thứ nhất, vô thường (anitya).
Thực vậy, cũng như mọi khía cạnh của thế giới bên ngoài đều được
coi là vô thường, thay đổi không ngừng, thì cá nhân mỗi người cũng không thể
được coi là có một linh hồn hay bản thể thường hằng bất biến nhập thể tạm thời
ở trên trái đất này, nhưng phải được coi là một dòng lưu chuyển liên tục của
những trạng thái và sự kiện tâm linh phát sinh từ những điều kiện và đến lượt
chúng lại làm phát sinh những trạng thái tâm linh khác.
Nhưng không được hiểu lakṣaṇas này một cách máy móc theo nghĩa
chữ. Theo một nghĩa khác, nó là một lời cảnh cáo chống lại tri giác sai lạc về
thế giới nảy sinh từ thói quen của trí khôn chúng ta thích đặt tên cho sự vật,
xếp loại các sự vật theo các phạm trù, khái niệm tuỳ tiện mà không tương ứng
thực sự với kinh nghiệm. Chúng ta có thể minh hoạ điều này bằng ví dụ của một
chiếc lá cây, vào mùa thu đổi màu xanh sang màu vàng.
Tự nhiên chúng ta cho rằng có một vật được gọi là lá cây, và chiếc
lá cây này chịu sự biến đổi về thuộc tính của nó là màu sắc. Nhưng người Phật
giáo nói rằng thực sự không phải vậy. Chiếc lá không phải một sự vật, nó không
có bản thể hay tman hiện hữu biệt lập với tập hợp các thuộc tính của nó. Chúng
ta có thể hình dung ra một chiếc lá không có màu sắc gì không? Chính sự tồn tại
của chiếc lá như là một thực thể đòi hỏi nó phải gắn liền với màu sắc và những
thuộc tính khác của nó. Điều mà truyền thống Phật giáo nói chính là chiếc lá,
trong thực tế, là toàn thể các yếu tố và các phần khác nhau của nó.
Trong ví dụ của chúng ta, chiếc lá vàng xuất hiện dựa trên chiếc
lá xanh trước đó, không hoàn toàn khác mà cũng không hoàn toàn là một với chiếc
lá xanh ấy. Như vậy, trong khi lakṣaṇas thứ nhất nói rằng mọi sự thay đổi, thì
lakṣaṇas thứ ba cho thấy rõ rằng trong thực tế không có thế giới của những sự
vật cố định nào có thể thay đổi. Trừu tượng hóa thành những thực thể cố định từ
dòng chảy liên tục của những biến cố thay đổi xung quanh chúng ta, rồi nói rằng
có sự thay đổi xảy ra cho những thực thể cố định này, là do một ảo tưởng.
Ví dụ này cũng làm sáng tỏ ý nghĩa của một giáo lý khác của Phật
trong bài giảng đầu tiên, đó là Trung Đạo. Trung Đạo có hai ý nghĩa, vì Phật đề
cập tới một con đường ở giữa sự nuông chiều nhục dục và sự khổ hạnh tự diệt (cả
hai con đường đều đã được Ngài suy nghĩ trong chính đời sống của Ngài trước khi
Giác ngộ), và một con đường giữa hai thái cực siêu hình là chủ nghĩa vĩnh cửu
và chủ nghĩa hư vô. Ngài dạy rằng sự vật không hiện hữu thường hằng, cũng không
tuyệt đối không hiện hữu. Cũng giống như chiếc lá, khi chiếc lá vàng xuất hiện
từ chiếc lá xanh, không hoàn toàn khác với nguyên nhân của nó, cũng không hoàn
toàn là một, thì mọi sự vật hữu hạn khác cũng xuất hiện từ những nhân tố khác,
không hoàn toàn khác mà cũng không hoàn toàn giống. Lãnh vực áp dụng quan trọng
nhất cho nguyên tắc này là lãnh vực đạo đức hay luân lý, vì chính trong lãnh
vực này Phật chứng minh rằng mọi hành vi cố ý, karman, nghiệp, đều mang theo
những hậu quả (20). Nguyên tắc lớn này Phật gọi là pratỵtya-samutpda, nguyên
tắc duyên sinh. Để cắt nghĩa tác động của nguyên tắc này trên bình diện đạo
đức, trong thời kỳ giảng dạy sau này, Đức Phật phân tích thân phận con người,
cho thấy những giai đoạn khác nhau mà những hành động quá khứ chi phối các
trạng thái tâm linh trong tương lai. Qua phân tích này, người ta có thể cắt đứt
được những hành động tiêu cực của tập quán, và biến đổi đời sống mình cho phù
hợp với tâm linh đã được giác ngộ của Phật. (21) Chúng ta cũng có thể thấy rằng
Tứ Diệu Đế chỉ là sự áp dụng thực hành của nguyên tắc này, cho thấy rõ những
điều kiện làm phát sinh và chấm dứt khổ đau (duhkha).
Kết luận
Ba tướng trạng (lakṣaṇas) là những đặc trưng của toàn thể hiện hữu có giới hạn, của vòng luân hồi. Theo một nghĩa nào đó, có thể coi những đặc tính này như sự phủ nhận lời giảng dạy của kinh Upaniṣads rằng Thực tại là sacchidnanda, "thường hằng, có ý thức và hạnh phúc" (22). Đức Phật nhận ra rằng điều mà Upaniṣads mô tả như là sat, thường hằng, thì lại là anitya, vô thường; điều là cit, tâm, thực ra lại là antman, vô ngã; điều được nghĩ là nanda, hạnh phúc, thực ra lại là duhkha, đau khổ. Có thể nói bản chất kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật, cốt tuỷ trí tuệ của Ngài, là sự hiểu biết mà Ngài đã đưa vào tận cõi thâm sâu của hữu thể của Ngài, rằng mọi vật hữu hạn đều thay đổi. Nếu chúng ta lại hỏi tại sao duhkha chứ không phải anitya là đề tài bài thuyết giáo đầu tiên của Ngài, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng mối quan tâm của Ngài là được nói với dân chúng và với kinh nghiệm của họ về thế giới. Người ta rất thường hay ví Đức Phật như một vị thầy thuốc, và trong vai trò này, Ngài muốn đề cập tới những vấn đề trực tiếp của thế giới.
Ba tướng trạng (lakṣaṇas) là những đặc trưng của toàn thể hiện hữu có giới hạn, của vòng luân hồi. Theo một nghĩa nào đó, có thể coi những đặc tính này như sự phủ nhận lời giảng dạy của kinh Upaniṣads rằng Thực tại là sacchidnanda, "thường hằng, có ý thức và hạnh phúc" (22). Đức Phật nhận ra rằng điều mà Upaniṣads mô tả như là sat, thường hằng, thì lại là anitya, vô thường; điều là cit, tâm, thực ra lại là antman, vô ngã; điều được nghĩ là nanda, hạnh phúc, thực ra lại là duhkha, đau khổ. Có thể nói bản chất kinh nghiệm giác ngộ của Đức Phật, cốt tuỷ trí tuệ của Ngài, là sự hiểu biết mà Ngài đã đưa vào tận cõi thâm sâu của hữu thể của Ngài, rằng mọi vật hữu hạn đều thay đổi. Nếu chúng ta lại hỏi tại sao duhkha chứ không phải anitya là đề tài bài thuyết giáo đầu tiên của Ngài, chúng ta chỉ có thể phỏng đoán rằng mối quan tâm của Ngài là được nói với dân chúng và với kinh nghiệm của họ về thế giới. Người ta rất thường hay ví Đức Phật như một vị thầy thuốc, và trong vai trò này, Ngài muốn đề cập tới những vấn đề trực tiếp của thế giới.
Niết Bàn, Cái Vô Bờ
(Nirvàịa)
Ở những trang trên đây chúng ta đã bàn đến sự giác ngộ của Phật
về bản chất của hiện hữu có giới hạn, về bản chất của luân hồi (samsra). Có thể
nói gì về Niết bàn (nirvṇa), là trạng thái mà Phật đã đạt tới lúc Ngài được
Giác ngộ không? Ở đây câu trả lời cũng là "không", bởi lẽ trạng thái
Niết bàn là trạng thái vô hạn, nó hoàn toàn ở ngoài thế giới lệ thuộc, thế giới
mà chúng ta cảm nghiệm trong trạng thái không được giác ngộ của chúng ta. Nhưng
chúng ta có thể nghĩ ra một sự mô tả tạm thời bằng cách nhìn lại những tướng
trạng (lakṣaṇas). Khi áp dụng những đặc tính vào các sự vật hữu hạn, chúng ta
có thể giả thiết rằng cái vô hạn thì có những đặc tính đối nghịch với những
tướng trạng (lakṣaṇas) của những cái hữu hạn. Như thế, khi kinh Dhammapada nói
"Mọi vật hữu hạn đều là vô thường". Khi ai hiểu và thấy được điều
này, người ấy sẽ không còn quan tâm gì tới cái khổ nữa; đó là "Đạo Thanh
tịnh", có lẽ chúng ta có thể hiểu rằng cái vô hạn là cái gì thường hằng và
vững bền; khi kinh nói rằng "Mọi sự vật hữu hạn đều đau khổ".
Khi ai hiểu và thấy được điều này, người ấy sẽ không còn quan
tâm gì tới cái khổ nữa. Đó là Đạo Thanh tịnh, chúng ta có thể hiểu rằng cái vô
hạn là cái thoả mãn, là cái hạnh phúc; nhưng về tướng lakṣaṇas thứ ba thì kinh
nói rằng "Mọi sự vật (bất kỳ là gì) đều không có một bản ngã bất
biến". Khi ai hiểu và thấy được điều này, người ấy sẽ không còn quan tâm
gì tới cái khổ nữa. Đó là "Đạo Thanh tịnh". Ở đây chúng ta phải hiểu
rằng ngay cả cái vô hạn cũng không thể được gọi là bản ngã (tman). Nói theo
những đặc tính của loài người, chúng ta thấy rõ các kinh đều nói rằng Quả Phật
là trạng thái trí tuệ sâu thẳm, cảm thông bao la, và năng lực tràn trề. Và phải
chăng có thể theo cách này mà xét về những gì là hư hoại, đau khổ, và dễ thay
đổi:
"Cái này là của tôi.
Tôi là cái này. Cái này là tôi chăng?"
"Bạch Thế Tôn, Điều đó không thể được".
"Bạch Thế Tôn, Điều đó không thể được".
Xin cảm ơn bài PHÁP THOẠI LỜI PHẬT DẠY!
Trả lờiXóaXin cho con có đủ TRÍ TUỆ sống theo lời Phật dạy.
Kinh mung ban huu Nguoi Nguyen Thuy sang tham...chuc an lanh va tu tai trong cuoc song cua ban.
XóaNAM MÔ BẢN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!Chúng sinh nói chung,những dân đen trong xã hội nói riêng ,bị cai trị,bị hà hiếp cướp bóc...những kẻ chịu đè nén đều tự cho mình là "kiếp trước ăn ở chả ra gì,kiếp này chịu khổ" thì bao giờ thoát khổ?
Trả lờiXóaNAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! Vậy là kiếp này muốn TU cũng AI CHO TU (bị đè nén cùng khổ,ăn không đủ để duy trì mạng sống thì TU sao đây???)
Liệu có thể thay cuộc đời khổ hạnh vì bọn quan lại hà hiếp bằng cách phải tự thân cùng nhau diệt bọn cai trị không?
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! Sao ĐỨC PHẬT với PHÁP VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN không giáo hóa kẻ ác để chúng làm điều thiện??
NAM MÔ BẢN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT!Chúng sinh nói chung,những dân đen trong xã hội nói riêng ,bị cai trị,bị hà hiếp cướp bóc...những kẻ chịu đè nén đều tự cho mình là "kiếp trước ăn ở chả ra gì,kiếp này chịu khổ" thì bao giờ thoát khổ?
Xóa- Nhân quả “ Gieo quả gì ắt sẽ gặt quả ấy bạn hữu HỒNG NGA a!..
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! Vậy là kiếp này muốn TU cũng AI CHO TU (bị đè nén cùng khổ,ăn không đủ để duy trì mạng sống thì TU sao đây???)
- Tu là sửa đổi những tánh hư tật xấu, làm việc thiện, tạo công đức tốt để kiếp sau không phải sanh vào cảnh khổ.
- Duy trì mạng sống tất là chúng ta phải kiếm sống, hai vấn đề không liên quan tới nhau ban hữu HỒNG NGA ạ!....
Liệu có thể thay cuộc đời khổ hạnh vì bọn quan lại hà hiếp bằng cách phải tự thân cùng nhau diệt bọn cai trị không?
- Tất cả đều do nghiệp lực tạo ra (như trên TD da nói). Nếu chúng ta muốn sanh vào cảnh giới tốt đẹp, thì phải nổ lực tu tập, không nên tạo nghiệp xấu ác nữa, để thoát cảnh khổ đau mà thôi. Mình phải tự cứu lấy mình không ai giúp cho chúng ta cả.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT! Sao ĐỨC PHẬT với PHÁP VÔ LƯỢNG VÔ BIÊN không giáo hóa kẻ ác để chúng làm điều thiện?
- Xin cho hỏi bạn hữu HỒNG NGA có phải là cô giáo không a?....
- Thí dụ trong 1 lớp học có học sinh ngoan, hiền, cũng có học sinh ngang bướng, cứng đầu….vậy bạn hữu là cô giáo bạn hữu có cách gì giúp cho những hoc sinh ngoan hiền lại không?....
- Cũng vậy Đức Phật là Đức Cha Lành giáo hóa tất cả chúng sanh, khuyên răn làm lành tránh dữ, nhưng có người hành trì theo, cũng có người không làm theo….Nếu những người tu tập theo lời dạy của Ngài thì chúng ta gặp những cảnh lành, an vui…….không thì ngược lại…