Nhẫn nhục
quả là đức hạnh cao cả của bậc Ðại hùng, Ðại lực, Ðại trí, Ðại bi. Thiếu kiên
định và nhẫn nhục thì Phật sự và đạo nghiệp khó thành. Thảo nào trước khi nhập
diệt, đức Thế Tôn đã di chúc lại cho môn đệ của Ngài trong kinh Di giáo: -- Ai
kham thọ nhẫn nhục một cách hoan hỷ như uống nước cam lồ, người ấy xứng danh là
bậc vào đạo có trí.
Nói đến hạnh nhẫn nhục thì có lẽ không ai trên cõi đời này - nhất
là giới giàu sang phú quý, thanh thế uy quyền- nhẫn nhục bằng đức Phật khi còn
tại thế. Ngài nhẫn nhục chỉ vì mục đích tối thượng là tìm ra chánh đạo, giải
thoát sanh tử cho mình và cho mọi người, mang lại thanh bình, an lạc cho chúng
sanh. Nhẫn nhục ở đây không mang ý nghĩa ráng sức chịu đựng hay cố đấm ăn xôi nhằm
đạt đến mục tiêu danh vọng của riêng mình.
Khi còn là Thái tử Tất Ðạt Ða, Ngài đã phải bao phen nhẫn nhục
trước thái độ ngang tàng, phách lối của Ðề Bà Ðạt Ða, người em con chú của
Ngài. Hôm đó, Tất Ðạt Ða đang ngồi trên lưng voi diễu qua kinh thành
Ca Tỳ La Vệ sau khi thắng cuộc so tài cung kiếm, và được Quốc vương Thiện Giác
gả công chúa Da Du Ðà La. Ðề Bà Ðạt Ða nổi máu ganh tức và để ra uy với mọi
người, chàng tóm lấy đàu voi, đấm chơi một cú, và thớt voi khổng lồ lăn đùng
xuống đất. Thái tử Tất Ðạt Ða té nhào. Chàng thản nhiên đứng dậy, ôn tồn nói:
-- Ðề Bà Ðạt Ða, hành động của cậu không đẹp tí nào, chưa phải lúc cho cậu
dương oai diễu võ như vậy! Ðề Bà Ðạt Ða ngước mặt kênh kênh rồi bỏ đi.
Qua 6 năm tu hành khổ hạnh trong núi rừng sương tuyết, Ngài đã
phải kham nhẫn đến độ tưởng chừng như sức người không chịu nổi, để rồi dưới cội
Bồ đề, trước giờ đắc đạo, âm binh quỷ quái và nội chướng ngoại ma trong nhiều
đời nhiều kiếp nhất tề nổi dậy công phá mục tiêu giải thoát và hóa độ chúng
sanh cao cả của Ngài. Và tất nhiên là chúng đã bị trí tuệ và sức kiên định của
Ngài hàng phục.
Sau khi ngộ Ðạo, trên bước đường vân du hoằng hóa, Ngài lại gặp
biết bao nghịch cảnh rợn người. Với hạnh từ bi, nhẫn nhục, Ngài đã hóa giải và
nhiếp thọ tất cả.
Một hôm, trên đường về Xá vệ, đức Thế Tôn đi ngang qua một cánh
đồng nhằm mùa gặt hái. Dân chúng đang nô nức ăn mừng linh đình. Thấy đức Thế Tôn
từ xa đi lại, Bharadvaja, một tín đồ Bà La Môn, chạy ra dang hai tay chặn Ngài,
nói: -- Ông đạo, mời ông đi ngay cho. Ông làm gương xấu cho mọi người. Ở đây,
chúng tôi đang kiểm điểm và ăn mừng thành quả lao động của chúng tôi. Ông chả
làm gì cả. Ông lang thang khắp nẻo phố phường. Ông lê la cùng đường cùng xóm.
Ông chỉ mệt một chút là gặp ai, ông cũng chìa bình bát ra. Tốt hơn là ông nên lao
động, ông nên cày bừa gíeo hạt mà ăn.
-- Này bạn, đức Phật mỉm cười nói, ta cũng cày bừa gieo hạt như
bạn, khi công việc làm xong, ta dùng bữa thoải mái.
-- Ông mà cũng cày bừa gieo hạt! Ai tin được điều đó? Trâu bò
của ông đâu? Hạt giống của ông đâu?
-- Này bạn, hiểu biết trong sạch là hạt giống mà ta gieo trồng,
tu tập thánh thiện là mưa lành tưới trên mặt đất phì nhiêu, hạt giống sẽ đâm
chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái và già chín trên đó. Ta cầm cày kiên cố: Lưỡi
cày là trí huệ, chuôi cày là giáo pháp, thành tín là con bò khoẻ mạnh kéo cày.
Ta cày đến đâu là ái dục tróc gốc như cỏ phơi trên đồng đến đó, và sản phẩm vụ
mùa ta thu hoạch chính là hạt bất tử.
Như bị thôi miên, Bharadvaja đứng sững sờ một lát rồi sụp lạy
dưới chân Ngài. Ðoạn mời Ngài vào nhà, cúng dường vật thực và thỉnh Ngài thuyết
pháp cho gia quyến cùng nghe. Ngài đã thuyết pháp Bát chánh đạo và Tứ vô lượng
tâm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Mọi người hoan hỷ lắng nghe và xin quy y Ngài.
Ròi có lần đức Thế tôn và A Nan bị Hoàng hậu Magàndiya xúi giục
đám nô lệ mắng nhiếc thậm tệ. Chúng gọi thầy trò Ngài là lũ âm binh ma quái, bọn
súc sanh trá hình. A Nan đau buồn, thỉnh Phật đi nơi khác. Ðức Thế tôn nhỏ nhẹ
hỏi: -- Nên đi đâu bây giờ, A Nan?
-- Ðến một thành phố khác, bạch Thế tôn.
-- Nếu ở đó bị hủy báng nữa thì sao?
-- Thì đến thành phố khác nữa.
-- Nếu bị hủy báng nữa?
-- Thì đến nơi khác nữa.
-- A Nan, ở đâu có chướng duyên, ở đó ta dừng bước. Ta như một
thớt voi lâm trận, chấp nhận mọi cung tên và kham nhẫn mọi hủy báng. Có ai nghe
voi than phiền giữa trận mạc bao giờ. Hãy tu tập hạnh nhẫn nhục, A Nan.
Lố bịch nhất là nhóm ẩn sĩ Bà La Môn âm mưu xúi giục Chiến già
(Sincâ) lăng nhục Ðức Phật.
Một buổi sáng đẹp trời, Ngài đang thuyết pháp giữa chánh điện.
Chiến già, trông giống như một bà đang mang thai sắp đến ngày sinh nở, khệnh khạng
vào ngồi trước mặt đức Thế Tôn rồi cất giọng sang sảng nói: -- Ngài thuyết pháp
lời lẽ ngọt như đường mật. Còn em, mang thai với Ngài, sắp làm mẹ trong nay
mai, thì không có đến một nơi nằm chỗ; củi lửa than dầu cũng không có! Nếu Ngài
xấu hổ thì nhờ đệ tử của Ngài như quốc vương Ba Tư Nặc hay trưởng giả Cấp Cô
Ðộc lo cho em chứ. Nhưng không ! Ngài chỉ biết vui hưởng ái tình mà cóc cần cưu
mang trách nhiệm ! vừa nói vừa huơ huơ hai tay lên trời như một mụ phù thủy.
Ðức Thế Tôn thản nhiên, hỏi: -- Này cô em, cô nói thật hay vu
khống đó?
-- Anh biết rõ quá mà, em đâu có nói láo!
Các Phật tử Ưu bà di định đứng dậy lôi cổ con mẹ khùng khùng ra
khỏi chùa, nhưng đức Thế Tôn đưa tay ra hiệu họ ngồi xuống. Thấy thế, Chiến già
càng thêm sôi máu, ả đứng phắt dậy, định xông đến làm nhục đức Thế Tôn, nhưng
vì ả thở mạnh quá, chiếc dây nịt ở bụng đứt ra, trái banh gỗ rớt xuống sàn nghe
cái bạch, đức Thế Tôn cười nói: -- Ðó, con của cô sanh rồi đó! Vừa xấu hổ, vừa
sợ hãi, ả té xỉu bất tỉnh, hai sư cô phải dìu ả sang nhà bên xoa dầu, thoa bóp
và chăm sóc cho đến khi ả tỉnh lại.
Ngay với cả đệ tử của mình, đức Thế Tôn cũng thường giáo hóa
bằng hạnh nhẫn nhục.
Nhóm Tăng trẻ tại Kiều Thưởng Di say mê tranh luận đến bất chấp
ngôn hạnh của Bổn sư. Hai ba lần khuyên răn không được, đức Thế Tôn họp chúng lần
chót, dạy rằng: -- Hạnh phúc thay cho ai có được người bạn sáng suốt. Chướng
ngại nào mà hai bạn tài đức không thể vượt qua? Người không có bạn tâm giao
khác nào vua không có đất nước, phải lang thang phiêu bạt trong cô đơn hiu hắt
như thớt voi già trong cánh rừng hoang.
Ngài lặng lẽ giã từ Tăng chúng, một mình ôm bát núi an cư ba
tháng mùa mưa với sự trợ giúp của chú voi già và cậu khỉ vàng thân thiện.
Ðề Bà Ðạt Ða, đệ tử Phật, quyết tâm hại Phật để thống lãnh Tăng
đoàn, Ngài vẫn không hề than trách. Ngài cố tình tránh mặt và nghĩ rằng chỉ có
lòng từ bi và hạnh nhẫn nhục mới đủ sức cảm hóa con người một dạ hai lòng và
nhiều tham vọng đó. Và đúng như vậy, trong thời gian lâm bệnh, Ðề Bà Ðạt Ða đã
ngày đêm ăn năn sám hối và niệm danh hiệu Ngài cho đến khi giã từ dương thế
trong đau thương khốn khổ. Ngài từng dạy:
Nhẫn nhục hạnh tối cao
Niết bàn quả tối thượng
Xuất gia nhiễu hại người
Ðâu còn là Sa Môn
Nhẫn nhục quả là đức hạnh cao cả của bậc Ðại hùng, Ðại lực, Ðại
trí, Ðại bi. Thiếu kiên định và nhẫn nhục thì Phật sự và đạo nghiệp khó thành.
Thảo nào trước khi nhập diệt, đức Thế Tôn đã di chúc lại cho môn đệ của Ngài
trong kinh Di giáo: -- Ai kham thọ nhẫn nhục một cách hoan hỷ như uống nước cam
lồ, người ấy xứng danh là bậc vào đạo có trí.
Ðúng vậy ! Chỉ có Nhẫn Nhục mới tránh được mọi xung đột, oan
khiên và bất hạnh trên đời.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]