“Từ bi là căn bản”, đây là lời nói viên
mãn chính xác, là tâm tuỷ của Phật giáo Đại thừa, biểu đạt được nội dung chân
thật của Phật giáo. Vì vậy tín đồ của Phật giáo Đại thừa nên tư duy nghiêm mật,
nắm bắt thiết thực nhất!.
Từ phương diện tu hành của Bồ-tát, như trong Kinh thường nói:
“Đại bi là đứng đầu”; “Đại từ bi là căn bản”. Từ phương diện tu học hoàn thành
viên mãn Phật quả thì trong Kinh thường nói: “Chư Phật Thế Tôn, lấy đại bi làm
thể”, Còn trong Luận thì nói: “Phật tâm là đại từ bi”. Kinh Luận đều có nhất
trí với nhau, cốt lõi về thực hành và quả vị của Đại thừa, không phải là gì
khác, đó chính là từ bi. Tách rời khỏi từ bi thì không có Bồ-tát, cũng không có
Phật.
Cũng có thể khẳng định: nếu như không có từ bi, thì không có
Phật pháp, vì Phật pháp phát huy trên cơ sở từ bi. Tôn chỉ của Đại thừa như
vậy, nếu hành giả Thanh văn chuyên suy nghĩ về “tự lợi” thì sẽ không đồng ý với
quan điểm này. Nhưng ba tạng Kinh Luật Luận mà hành giả Thanh văn cùng thừa
nhận, thì đức Phật Thích Ca xác thật là như vậy.
Từ hành trạng quá khứ của cuộc đời Thế Tôn thì: lúc ban sơ nhất,
động cơ dẫn đến phát tâm tu đạo của Ngài là do lần quan sát trong buổi lễ canh
nông. Thế Tôn được sinh ra và lớn lên ở nơi vương cung, rất khó có dịp quan sát
sự canh tác trồng trọt của nông phu. Khi Ngài thấy nông phu vất vả dưới ánh
nắng chói chang, đói khát mệt mỏi mà vẫn không được nghỉ ngơi; nhìn thấy con
trâu đang phục dịch kéo cày, bị đánh đập, bị cái ách gây tổn thương chảy máu
trên cổ; thấy luống đất khi xới lên, có rất nhiều côn trùng nhỏ, bị chim chóc
cắn mổ; thấy máu của con bò chảy xuống đất, không lâu sau sản sinh ra con giòi,
trở thành thực phẩm cho chim chóc.
Chúng sinh tự tàn hại lẫn nhau, sự gian khổ của nông phu, khắc
họa lên bức tranh tàn khốc của thế gian. Nhìn thấy cảnh tượng ấy, nội tâm của
đức Thế Tôn đau xót sâu sắc, từ đó Ngài đã suy nghĩ đến vấn đề cầu đạo và giải
thoát thế gian. Nhưng lúc này chỉ xuất phát từ suy nghĩ vì cá nhân!
Sau đó, đức Thế Tôn lại đi du hành, nhìn thấy già bệnh và tử
vong. Từ sự thể nghiệm của cá nhân mà hiểu được con đường đau khổ chung của
nhân loại phải trải qua, chính mình cũng không thể tránh khỏi. Từ tha nhân mà
hiểu được chính mình, từ chính mình mà suy luận đến tha nhân.
Quá trình đau khổ trong lịch trình sinh mạng của chúng sinh, nếu
chỉ suy nghĩ vì mình, tức thành tâm yếm ly (khổ) của Thanh văn. Nếu như không
chỉ vì chính mình, mà còn vì tất cả chúng sinh, tức thành tâm từ bi lân mẫn của
Bồ-tát. Đức Thế Tôn vốn không phải suy nghĩ vì cá nhân, do đó dưới cội Bồ-đề,
triệt ngộ chân thật của kiếp nhân sinh, liền đi khắp lưu vực của hai bờ sông
Hằng, đến khắp mọi nẻo đường để chuyển pháp luân, đánh trống pháp, thổi pháp
loa, đem pháp âm vi diệu, kêu gọi chúng sinh đang đau khổ nên thức tỉnh giác
ngộ.
Nếu xem từ truyện ký, thì cuộc đời của đức Thế Tôn, không ra
ngoài đại từ đại bi, biểu hiện tâm từ bi của đức Phật. Nếu thâm sâu hơn nữa mà
suy tìm chuyện tu hành trong quá khứ của đức Thế Tôn, như theo truyền thuyết
trong Bổn Sinh Đàm, Bồ-tát quên mình hy sinh vì người khác! Vô cùng từ bi
thương xót chúng sinh!
Học giả Thanh văn cũng nói: Bồ-tát lấy tâm từ mà tu
Ba-la-mật-đa, khi viên mãn thì thành tựu Phật quả. Do đó việc thực hành và quả
vị của Đại thừa (Bồ-tát và Phật) là tâm hành từ bi quán triệt từ đầu tiên cho
đến cuối cùng. Nếu như lìa khỏi từ bi, thì làm sao xứng với tên gọi Đại thừa
được!
Trong Kinh điển Đại thừa: Bồ-tát với Thanh văn đều gọi là con
của đức Phật, nhưng Bồ-tát giống như con của trưởng giả do vị đại phu nhân sinh
ra, còn Thanh văn giống như con của người ở. Điều này muốn nói: Bồ-tát là đích
tử của đức Phật, sẽ tiếp nối sự nghiệp cao quý của Ngài và có huyết thống thuần
chính. Thế còn Thanh văn thì sao? Mặc dù họ cũng y vào lời Phật dạy và giáo
pháp để tu tập, nhưng không tránh khỏi sự hỗn tạp của huyết thống ti tiện.
Huyết thống ti tiện này, Thế Tôn chỉ cho người có tâm hạnh độc thiện sống ẩn
dật hoặc tu khổ hạnh ở Ấn Độ đương thời.
Thanh văn thuộc trong Phật pháp, có một phần trí tuệ thâm sâu, song không thể
đại biểu cho sự viên mãn của Phật pháp, bởi vì có hàm chứa một phần đi ngược
với tinh thần của Đức Phật, tức không có đại từ bi, cho nên trong “Kinh Hoa
Nghiêm” đưa ra ví dụ hàng Nhị thừa được sinh từ sau lưng của đức Phật.
Vì vậy, nếu thiên về pháp Thanh văn mà nói, chuyên lấy tâm hạnh
của Thanh văn làm Phật pháp, thì không thể khẳng định Phật pháp lấy từ bi làm
căn bản được. Song căn cứ vào tinh thần Đại thừa tiêu biểu cho Đức Phật, thì từ
bi làm căn bản, là thích đáng nhất hiển bày và phát huy được bản chất của Phật
giáo, là tâm tuỷ của đức Phật.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]