●❈❈❈● KÍNH CHÚC CÁC BẠN ĐỒNG TU THÂN TÂM THƯỜNG AN LẠC, TINH TẤN TU HÀNH, MAU ĐẾN BỜ GIẢI THOÁT ●❈❈❈●

02/11/2012

SỰ TÍCH PHẬT ĐẢN SANH.

MANG THAI

     Vua Tịnh Phạn (Suddhodana), đã trị vì vương quốc nhỏ của bộ tộc Sakya (Thích Ca), phía Bắc Ấn Ðộ có chu vi khoảng chừng 4.000 lý (1.880 km2) có vợ là Bà hoàng hậu Maha Maya (Mahamaya), trong lúc ngủ đã nằm mơ thấy một luồng ánh sáng của một con voi quý màu trắng (bạch tượng) có sáu chiếc ngà bay đến nhập vào thân thể bà, làm bà thụ thai với một niềm hoan hỷ tràn đầy.
     Voi trắng có 6 ngà được biện giải như sau : Bởi vì, Voi trắng có 6 ngà rất quý hiếm khó tìm, (vì thông thường Voi chỉ có 2 Ngà và rất ít thấy Voi màu trắng), nó có sức mạnh rất hùng dũng lúc nào cũng đi tới. Sáu ngà biểu tượng Bồ Tát với hạnh nguyện cứu nhân độ thế, bởi Lục Độ Ba La Mật là : Bố thí, Trì giới, Nhẩn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.

ĐẢN SANH
     Cách đây 2.633 vào năm 624 trước công nguyên, khi Bà hoàng hậu sắp đến ngày sanh, có xin phép nhà vua trở về quê nhà để sanh theo đúng cổ tục của Ấn Độ, đàn bà có chồng lúc sanh nở phải trở về nhà cha mẹ, khi đi đế n khu Vườn Ngự Uyển Lâm Tỳ-Ni (Lumbini), cách thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) khoảng 15km, của vua Thiện Giác, thuộc nuớc Ấn Độ, nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt Aouth, phía Tây Nam thuộc xứ Népal, Bà cho đoàn xa giá ngừng lại để nghỉ ngơi, Bà nhìn thấy một đóa hoa Vô Ưu màu trắng tuyệt đẹp nở ra duy nhất sau cả ngàn năm cây cổ thụ đã tồn tại ở công viên này (theo người địa phương kể lại), rồi đưa tay trái ra để định hái hoa này làm động bào thai, từ đó trong nách trái Bà hạ sanh ra thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha), lúc mặt trời vừa mọc, nhằm đúng ngày có đêm trăng tròn tháng hai (Vesak) của Ấn Độ, Theo lịch Ấn Độ, tháng Vesak tương đương với tháng 4 âm lịch Trung Hoa.

      Do vậy, ngày sanh của thái tử Tất Đạt Đa tức Đức Phật Thích Ca sau này phải là ngày 15 rằm trăng tròn tháng 04 âm lịch từ năm 624 trước công nguyên và được biết Ngài nhập niết bàn vào rằm tháng 2 năm 544 trước công nguyên, cho nên Phật Lịch năm 2009 sẽ là 2553. Bởi vì, lấy 544 + 2009 = 2553. Còn Đại Lễ Phật Đản năm 2009 sẽ là 2633. Bởi vì, lấy 624 + 2009 = 2633 hay nói khác đi, lấy 2553 + 80 (tuổi thượng thọ của Đức Phật) = 2633. Sau khi sanh ra được 7 ngày thì Hoàng Hậu tức thân mẫu của Ngài qua đời, cho nên Ngài được bà dì Maha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati Gotami), trực tiếp nuôi nấng, dạy dỗ theo lời trăn trối của Hoàng Hậu, tên riêng của Ngài là Si Đác Ta (Tất Đạt Đa), tên giòng họ Ngài là Gotama (Cồ Đàm). Vì giòng họ nầy thuộc bộ lạc Sakya (Thích Ca), cho nên sau nầy có danh hiệu Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) thuộc bộ lạc Thích Ca. Ngài sanh ra đi 7 bước, mỗi bước có hiện ra một hoa sen nâng đở chân Ngài và tay phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất bằng ngón tay trỏ, Ngài đọc bài kệ như sau:
Thiên thượng thiên hạ Duy ngã độc tôn
Nhất thiết chúng sanh Giai hữu Phật tánh
Tạm dịch:
Trên trời và dưới đất
Chỉ có ta trên hết
Tất cả chúng sanh đều
Có tánh thể trí huệ.

TRƯỞNG THÀNH
     Đến năm 16 tuổi được vua cha cưới công chúa Yasodhara (Da Du Đà La) cho Ngài, tưởng rằng Ngài sẽ sống sung sướng hạnh phúc hưởng thụ riêng, cung vàng điện ngọc của một Ông Hoàng Tử trong nhung lụa với vợ đẹp con thơ chờ ngày nối nghiệp vua cha.

THÁI TỬ XUẤT GIA
     Nhưng cuối cùng, sau 13 năm sống cuộc đời hạnh phúc giàu sang phú quý, lúc ấy Ngài được 29 tuổi, tâm Ngài vẫn không muốn an hưởng riêng tư, vì có tấm lòng Từ Bi Bác Ái thương người như thể thương thân cao cả rãi khắp mọi nơi, lúc nào cũng nghĩ đến nhân loại đau khổ, mới quyết tâm dẹp bỏ cái hư ảo vật chất hữu hình đã có tất cả không ai sánh bằng, để tìm đường xuất gia học đạo vào lúc giữa đêm mồng tám tháng hai, ngõ hầu cứu độ chúng sanh thoát khỏi vòng Sanh, Già, Bịnh, Chết luân hồi không từ bỏ một ai tránh khỏi, và sau 6 năm gian khổ, kiên trì  tu tập nơi chốn  rừng sâu hoang vắng  để rồi  được  đắc  thành Phật  Đạo (Đức Phật Thích Ca Thành Đạo) lúc sao mai mọc, vào ngày mùng 8 tháng Chạp năm 659 trước công nguyên (624 + 35 = 659) tính đến năm 2009 sẽ là : 659 + 2009 = 2678 năm. 29 tuổi xuất gia nhằm năm 653 trước công nguyên (năm sanh 624 + 29 tuổi = 653) + 6 năm tìm đường tu tập, Ngài được 35 tuổi thành đạo nhằm năm 659 trước công nguyên. (năm sanh 624 + 35 tuổi = 659).

 THÀNH ĐẠO
     «Thái Tử Tất Đạt Đa với tấm lòng đại bi, đại trí, với tinh thần dũng mãnh tinh tấn, ngồi tư duy 49 ngày dưới gốc cây, chiến đấu với bọn giặc phiền não ở nội tâm như tham, sân, si, mạn nghi… và với giặc thiên ma do Ma vương Ba-tuần chỉ huy. Ngài đã thắng vượt được mọi ma chướng trong ngoài, tâm trí được khai thông. Cuối cùng, vào đêm mùng 8 tháng Chạp (tức đêm mùng 8 tháng Pao-sa, tháng 2 theo lịch Ấn), lúc canh hai, Ngài chứng được quả Túc mệnh minh, thấy rõ được tất cả khoảng đời của mình trong tam giới. Nửa đêm canh ba, Ngài chứng được quả Thiên nhãn minh, thấy được rõ tất cả bản thể của vũ trụ và nguyên nhân cấu tạo của nó. 
     Đến canh tư, Ngài chứng được quả Lậu tận minh, thấy rõ nguồn gốc của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi. Khi sao mai vừa mọc, Ngài hiểu thấu mọi pháp không gì không do duyên khởi, tất cả pháp duyên khởi rốt cuộc là đạo lý vô ngã. Thế là “nảy sinh trí tuệ, nảy sinh nhận thức, định được đạo, đánh giá được pháp, cuộc đời đã hết, phạm hạnh đã thành, điều cần làm đã làm xong, không còn trở lại kiếp người, biết được như chân thật” 
     Thái Tử Tất Đạt Đa viên ngộ, soi tận chỗ tối tăm, trong tâm rỗng lặng, tỏ ngộ hết thảy, thành Đẳng chánh giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, xưng là Vô thượng Phật Đà. Các đệ tử của Ngài gọi Phật Đà là Thế Tôn, là Thích Ca Mâu Ni.…Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo, vui sướng vô lượng, tức thì 28 ngày liền hưởng niềm vui giải thoát dưới các gốc cây gần đó. Bảy ngày đầu dưới gốc cây Tất-ba- la. Về sau gọi là cây Bồ-đề vì Phật thành đạo dưới gốc cây đó. 
     Bảy ngày tiếp theo dưới cây A-du-ba-la. Thời gian này có ma vương Ba-tuần đến đề nghị người nhập diệt nhưng Ngài không nghe. Bảy ngày tiếp theo nữa dưới cây Mục-chân-lân-đà. Thời gian này gặp mưa bão, rồng Mục-chân-lân-đà hiện ra dùng thân mình che chở cho Phật. Rồng này xin quy y, là đệ tử đầu tiên trong loại bàng sinh. Bảy ngày tiếp theo nữa dưới cây La-đô-da-hàng -na. Có hai thương nhân là Đề-vi và Bà-lê-ca đi qua chỗ Phật đã cúng dường mạch nha và xin quy y Phật. Đây là hai Ưu-bà-tắc (cận sự nam) sớm nhất.

 BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN
Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc Uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm Ông Tỳ Kheo (Kiều Trần Như, Ac Bệ, Thập Lục Ca Diếp, Ma Ha Nam Câu Ly và Bạc Đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.

 NHẬP DIỆT
     Trải qua 45 năm hay 49 năm? (bởi Đức Phật Thích Ca Thành Đạo lúc 35 tuổi và Ngài nhập niết bàn lúc Ngài 80 tuổi thì : 80 – 35 = 45năm) trên đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo. Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài nhập diệt lúc 80 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]