MANG THAI
Vua Tịnh Phạn (Suddhodana), đã trị vì vương quốc nhỏ của bộ tộc
Sakya (Thích Ca), phía Bắc Ấn Ðộ có chu vi khoảng chừng 4.000 lý (1.880 km2) có
vợ là Bà hoàng hậu Maha Maya (Mahamaya), trong lúc ngủ đã nằm mơ thấy một luồng
ánh sáng của một con voi quý màu trắng (bạch tượng) có sáu chiếc ngà bay đến
nhập vào thân thể bà, làm bà thụ thai với một niềm hoan hỷ tràn đầy.
Voi trắng
có 6 ngà được biện giải như sau : Bởi vì, Voi trắng có 6 ngà rất quý hiếm khó
tìm, (vì thông thường Voi chỉ có 2 Ngà và rất ít thấy Voi màu trắng), nó có sức
mạnh rất hùng dũng lúc nào cũng đi tới. Sáu ngà biểu tượng Bồ Tát với hạnh
nguyện cứu nhân độ thế, bởi Lục Độ Ba La Mật là : Bố thí, Trì giới, Nhẩn nhục,
Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ.
ĐẢN SANH Cách đây 2.633 vào năm 624 trước công nguyên, khi Bà hoàng hậu
sắp đến ngày sanh, có xin phép nhà vua trở về quê nhà để sanh theo đúng cổ tục
của Ấn Độ, đàn bà có chồng lúc sanh nở phải trở về nhà cha mẹ, khi đi đế n khu Vườn
Ngự Uyển Lâm Tỳ-Ni (Lumbini), cách thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) khoảng 15km,
của vua Thiện Giác, thuộc nuớc Ấn Độ, nay là xứ Ruminidhehi, thuộc quản hạt
Aouth, phía Tây Nam thuộc xứ Népal, Bà cho đoàn xa giá ngừng lại để nghỉ ngơi,
Bà nhìn thấy một đóa hoa Vô Ưu màu trắng tuyệt đẹp nở ra duy nhất sau cả ngàn
năm cây cổ thụ đã tồn tại ở công viên này (theo người địa phương kể lại), rồi
đưa tay trái ra để định hái hoa này làm động bào thai, từ đó trong nách trái Bà
hạ sanh ra thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha), lúc mặt trời vừa mọc, nhằm đúng
ngày có đêm trăng tròn tháng hai (Vesak) của Ấn Độ, Theo lịch Ấn Độ, tháng Vesak
tương đương với tháng 4 âm lịch Trung Hoa.
Do vậy, ngày sanh của thái tử Tất Đạt Đa tức Đức Phật Thích Ca
sau này phải là ngày 15 rằm trăng tròn tháng 04 âm lịch từ năm 624 trước công nguyên
và được biết Ngài nhập niết bàn vào rằm tháng 2 năm 544 trước công nguyên, cho
nên Phật Lịch năm 2009 sẽ là 2553. Bởi vì, lấy 544 + 2009 = 2553. Còn Đại Lễ
Phật Đản năm 2009 sẽ là 2633. Bởi vì, lấy 624 + 2009 = 2633 hay nói khác đi,
lấy 2553 + 80 (tuổi thượng thọ của Đức Phật) = 2633. Sau khi sanh ra được 7
ngày thì Hoàng Hậu tức thân mẫu của Ngài qua đời, cho nên Ngài được bà dì Maha
Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati Gotami), trực tiếp nuôi nấng, dạy dỗ theo lời trăn
trối của Hoàng Hậu, tên riêng của Ngài là Si Đác Ta (Tất Đạt Đa), tên giòng họ
Ngài là Gotama (Cồ Đàm). Vì giòng họ nầy thuộc bộ lạc Sakya (Thích Ca), cho nên
sau nầy có danh hiệu Sakya Muni (Thích Ca Mâu Ni) thuộc bộ lạc Thích Ca. Ngài
sanh ra đi 7 bước, mỗi bước có hiện ra một hoa sen nâng đở chân Ngài và tay
phải chỉ lên trời, tay trái chỉ xuống đất bằng ngón tay trỏ, Ngài đọc bài kệ
như sau:
Thiên thượng thiên hạ Duy
ngã độc tôn Nhất thiết chúng sanh Giai
hữu Phật tánh
Tạm dịch:
Trên trời và dưới đất Chỉ có ta trên hết Tất cả chúng sanh đều Có tánh thể trí huệ.
TRƯỞNG THÀNH Đến năm 16 tuổi được vua cha cưới công chúa Yasodhara (Da Du Đà
La) cho Ngài, tưởng rằng Ngài sẽ sống sung sướng hạnh phúc hưởng thụ riêng,
cung vàng điện ngọc của một Ông Hoàng Tử trong nhung lụa với vợ đẹp con thơ chờ
ngày nối nghiệp vua cha.
THÁI TỬ XUẤT GIA Nhưng cuối cùng, sau 13 năm sống cuộc đời hạnh phúc giàu sang
phú quý, lúc ấy Ngài được 29 tuổi, tâm Ngài vẫn không muốn an hưởng riêng tư,
vì có tấm lòng Từ Bi Bác Ái thương người như thể thương thân cao cả rãi khắp
mọi nơi, lúc nào cũng nghĩ đến nhân loại đau khổ, mới quyết tâm dẹp bỏ cái hư
ảo vật chất hữu hình đã có tất cả không ai sánh bằng, để tìm đường xuất gia học
đạo vào lúc giữa đêm mồng tám tháng hai, ngõ hầu cứu độ chúng sanh thoát khỏi
vòng Sanh, Già, Bịnh, Chết luân hồi không từ bỏ một ai tránh khỏi, và sau 6 năm
gian khổ, kiên trì tu tập nơi chốn rừng sâu hoang vắng để rồi
được đắc thành Phật Đạo (Đức Phật Thích Ca Thành Đạo) lúc sao
mai mọc, vào ngày mùng 8 tháng Chạp năm 659 trước công nguyên (624 + 35 = 659)
tính đến năm 2009 sẽ là : 659 + 2009 = 2678 năm. 29 tuổi xuất gia nhằm năm 653
trước công nguyên (năm sanh 624 + 29 tuổi = 653) + 6 năm tìm đường tu tập, Ngài
được 35 tuổi thành đạo nhằm năm 659 trước công nguyên. (năm sanh 624 + 35 tuổi
= 659).
THÀNH ĐẠO «Thái Tử Tất Đạt Đa với tấm lòng đại bi, đại trí, với tinh thần
dũng mãnh tinh tấn, ngồi tư duy 49 ngày dưới gốc cây, chiến đấu với bọn giặc phiền
não ở nội tâm như tham, sân, si, mạn nghi… và với giặc thiên ma do Ma vương
Ba-tuần chỉ huy. Ngài đã thắng vượt được mọi ma chướng trong ngoài, tâm trí
được khai thông. Cuối cùng, vào đêm mùng 8 tháng Chạp (tức đêm mùng 8 tháng
Pao-sa, tháng 2 theo lịch Ấn), lúc canh hai, Ngài chứng được quả Túc mệnh minh,
thấy rõ được tất cả khoảng đời của mình trong tam giới. Nửa đêm canh ba, Ngài
chứng được quả Thiên nhãn minh, thấy được rõ tất cả bản thể của vũ trụ và
nguyên nhân cấu tạo của nó.
Đến canh tư, Ngài chứng được quả Lậu tận minh, thấy
rõ nguồn gốc của đau khổ và phương pháp dứt trừ đau khổ để được giải thoát khỏi
sinh tử luân hồi. Khi sao mai vừa mọc, Ngài hiểu thấu mọi pháp không gì không
do duyên khởi, tất cả pháp duyên khởi rốt cuộc là đạo lý vô ngã. Thế là “nảy
sinh trí tuệ, nảy sinh nhận thức, định được đạo, đánh giá được pháp, cuộc đời
đã hết, phạm hạnh đã thành, điều cần làm đã làm xong, không còn trở lại kiếp
người, biết được như chân thật”
Thái Tử Tất Đạt Đa viên ngộ, soi tận chỗ tối tăm, trong tâm rỗng
lặng, tỏ ngộ hết thảy, thành Đẳng chánh giác, tự giác, giác tha, giác hạnh viên
mãn, xưng là Vô thượng Phật Đà. Các đệ tử của Ngài gọi Phật Đà là Thế Tôn, là
Thích Ca Mâu Ni.…Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sau khi thành đạo, vui sướng vô
lượng, tức thì 28 ngày liền hưởng niềm vui giải thoát dưới các gốc cây gần đó.
Bảy ngày đầu dưới gốc cây Tất-ba- la. Về sau gọi là cây Bồ-đề vì Phật thành
đạo dưới gốc cây đó.
Bảy ngày tiếp theo dưới cây A-du-ba-la. Thời gian này có
ma vương Ba-tuần đến đề nghị người nhập diệt nhưng Ngài không nghe. Bảy ngày
tiếp theo nữa dưới cây Mục-chân-lân-đà. Thời gian này gặp mưa bão, rồng
Mục-chân-lân-đà hiện ra dùng thân mình che chở cho Phật. Rồng này xin quy y, là
đệ tử đầu tiên trong loại bàng sinh. Bảy ngày tiếp theo nữa dưới cây
La-đô-da-hàng -na. Có hai thương nhân là Đề-vi và Bà-lê-ca đi qua chỗ Phật đã
cúng dường mạch nha và xin quy y Phật. Đây là hai Ưu-bà-tắc (cận sự nam) sớm
nhất.
BÀI PHÁP ĐẦU TIÊN Sau đó, Ngài liền đến vườn Lộc Uyển nói pháp Tứ đế độ cho năm
Ông Tỳ Kheo (Kiều Trần Như, Ac Bệ, Thập Lục Ca Diếp, Ma Ha Nam Câu Ly và Bạc
Đề). Từ đó đạo Ngài truyền khắp xứ Trung Ấn Độ và lan mãi khắp hoàn cầu.
NHẬP DIỆT Trải qua 45 năm hay 49 năm? (bởi Đức Phật Thích Ca Thành Đạo lúc
35 tuổi và Ngài nhập niết bàn lúc Ngài 80 tuổi thì : 80 – 35 = 45năm) trên
đường giáo hóa, Ngài đã tận lực gieo rắc ánh đạo vàng khắp đó đây, hóa độ chúng
sanh. Vô số người đã được mang ơn pháp nhũ của Ngài mà trở về với chánh đạo.
Nhơn duyên đã mãn, những người nên độ đều đã độ xong. Ngài vào niết bàn tại
rừng Ta la song thọ, để lại những nỗi thương tiếc tràn ngập cả lòng người. Ngài
nhập diệt lúc 80 tuổi, nửa đêm ngày Rằm tháng hai âm lịch.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]