Điều hy hữu
nhất trong tất cả những điều hy hữu là: khó thay Phật ra đời! Đây là sự kiện
trọng đại, vị tằng hữu (chưa từng có), nghìn năm một thuở trong lịch sử nhân
loại. Trong một thế giới, không bao giờ có hai vị Phật đồng thời xuất hiện.
Kinh Nikàya có ghi: “Một người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất
hiện một cách vi diệu. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán Chánh
Đẳng Giác”.
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như
ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình
an vĩnh cửu cho vạn loại, ban cho chúng sanh một phương thuốc mầu nhiệm điều
trị tâm bệnh, nỗi khổ trầm luân sinh tử.
Từ khi còn ở trong hoàng cung, Ngài đã thường trầm tư suy nghĩ
về những cảnh sanh, già, bệnh, chết của kiếp sống con người. Ngài ăn không
ngon, ngủ không yên khi nhìn thấy nỗi khổ đau của chúng sinh đang chìm đắm trong
dục lạc, si ái. Ngài không màng đến những thú vui xa hoa, sung sướng cho riêng
mình nơi cung son, khi nhân loại đang quờ quạng trong đêm trường vô minh tăm
tối.
Ngài quyết định ra đi vì đại cuộc, vì mục đích tìm ra ánh sáng giác ngộ,
cứu độ chúng sanh. Rõ ràng địa vị cao sang đối với Ngài không quan trọng bằng
sự giác ngộ, tấm lòng từ bi và hạnh nguyện phổ độ chúng sinh. Kinh Nikàya có
ghi:“Một chúng sinh duy nhất, một con người phi thường xuất hiện trong thế gian
này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự
tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và loài người”.
Đức Phật với sự giác ngộ của Ngài, không những mang tính minh
triết mà còn với lòng từ bi bất bạo động, mang an lạc, hạnh phúc, hòa bình, hữu
nghị nên được thế giới chấp nhận. Đó là một giá trị văn hóa tâm linh tôn giáo mang
tính vĩnh cữu.
Kinh A Hàm có tán thán sự kiện Đản sanh hi hữu, vi diệu của Đức
Phật như sau: “Sự xuất hiện của một người, này các Tỳ kheo, là sự xuất hiện của
mắt lớn, của đại quang, của đại minh, là sự xuất hiện thù thắng của sự chứng
ngộ vô ngại giải, là sự chứng đạt các giới và các giới sai biệt, là sự chứng
ngộ minh và giải thoát, là sự chứng ngộ quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A La
Hán, người ấy là ai? Này các Tỳ kheo, chính là Như Lai, bậc A La Hán.”
Đức Phật xuất hiện gọi là mắt lớn, nhìn thấu suốt bản chất sự
vật trên thế gian, là đại quang đại minh, là sự xuất hiện thù thắng của sự
chứng ngộ vô ngại giải (biện tài vô ngại). Ngài chứng đạt các giới và các giới
sai biệt, thấy rõ sáu căn, sáu trần và sáu thức là vô thường, duyên sinh, vô
ngã, huyễn mộng. Ngài đã thắp sáng trí tuệ Bát Nhã, không còn vướng nhiễm các
pháp, nên được giải thoát, đạt được các quả vị Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A La
Hán một cách tự tại.
Khi còn tại thế, Đức Phật từng dạy các vị tỳ kheo: “Này các Tỳ
kheo, khi các ngươi đến dưới một gốc cây ngồi nghỉ một buổi trưa nắng oi bức,
hay là đến dưới bóng cây các ngươi thiền tọa, sau khi rời các cây đó ra đi, các
ngươi phải tưởng nhớ bóng cây đã che mát cho mình”, và“Này các Tỳ Kheo, các
ngươi không được đi dẫm đạp trên cỏ non”. Những lời dạy của Đức Phật không
những từ bi đối với các loài động vật như: con người, trâu bò, heo, chó, gà,
vịt..., mà cho đến các loại thảo mộc, Đức Phật cũng khuyên nên hạn chế tối đa
vấn đề chặt phá, dẫm đạp lên mầm sống của các loài thực vật. Đạo Phật là đạo
hiếu sinh, yêu chuộng hòa bình, bảo vệ sự sống.
Bởi vậy, Đức Phật dạy: “Tâm tịnh quốc độ tịnh”. Nếu con người ai
cũng biết tu tập, thì họ phát triển khoa học, công nghệ nhưng không mang tính
chất phá hoại. Nếu áp dụng tinh thần từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha của Đạo Phật thì
các nhà khoa học sẽ không chế ra vũ khí hạt nhân giết người hàng loạt.
Cho nên,
muốn có một thế giới thật sự phát triển và hạnh phúc thì khoa học phải song
hành với đạo học. Nói cách khác, khoa học phải có đạo học thì khoa học đó mới
có thể đem lại lợi ích cho con người. Nếu khoa học không có đạo học, có nghĩa
là con người không có đạo đức, thế giới trở nên nguy biến, nhất là khi con
người đang có khuynh hướng hưởng thụ, hướng ngoại, đam mê vật chất.
Ngày xưa,
cha ông ta xem trọng đạo lý, tình nghĩa trong cuộc sống hơn là tiện nghi vật
chất. Nhưng thời hiện đại, xã hội loài người đào tạo con người phần nhiều là
trọng tri thức và hướng ngoại, nghĩa là xem trọng trí dục mà xem nhẹ đức dục.
Đây là nguyên nhân của mọi thác loạn của cuộc sống đương đại.
Mỗi mùa Khánh Đản về là dịp cho chúng ta ôn lại nét đẹp siêu
nhiên về sự xuất hiện vi diệu của Đức Phật và nhân cách vĩ đại của Ngài, đồng
thời cũng để nhắc nhở nhau tu hành theo ánh sáng chân lý mà Đức Phật đã tìm ra
và truyền lại.
Chúng ta là người học Phật, phải biết quay về với đời sống tâm
linh đạo đức, lấy giáo lý của Đức Phật soi sáng mọi hành động, lời nói và ý
nghĩ của mình, nhằm chuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình và xã hội được bình
an, phúc lạc.
Chúng ta được phước duyên cận kề ngôi Tam Bảo, học hiểu đạo lý tu
hành, có trí tuệ và đạo đức thì sẽ cảm thấy một sự an lạc, một năng lực sống
vững chãi thảnh thơi trên bước đường tu tập, dù cho dòng đời có biến động nhiễu
nhương theo định luật vô thường tan hợp.
Mỗi giây, mỗi phút chúng ta nghĩ điều
thiện, miệng nói điều lành, thân làm việc tốt, lợi đạo ích đời, sống hiền lương
đạo đức, đó chính là chúng ta đang tích lũy công đức lành để đời sau sanh ra
với y báo chánh báo trang nghiêm hơn. Công năng tu hành đó mới chính là phẩm vật
dâng lên cúng dường Đức Từ Phụ nhân ngày Đản sanh của Ngài.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]