Chúng ta kỷ
niệm đại lễ Phật Đản, tức là chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày ra đời của Đấng Thích
Ca Mâu Ni, Đức từ phụ của chúng ta. Ngày ra đời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở
trong cõi Diêm Phù Đề này có những ý nghĩa trọng đại và sâu xa. Ngày ra đời của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở trong cõi Diêm Phù Đề này có những ý nghĩa trọng đại
và sâu xa như sau:
Ý nghĩa thứ nhất:
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh:
- Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ, nhưng
trí tuệ đã bị chôn vùi bởi hàng hàng, lớp lớp vô minh. Do đó, sự xuất hiện Đức
Phật trong cõi đời này là để khơi mở trí tuệ cho chúng ta, cho hết thảy chúng
sinh, phá trừ tất cả màn hắc ám vô minh đó, để cho hết thảy chúng ta nhận ra
được Phật tính ở nơi chúng ta, nhận ra được trí tuệ ở nơi mỗi chúng ta.
Tất cả chúng ta đều là dễ thương, hết thảy chúng sinh đều là dễ
thương. Nhưng mà, chúng ta có thể làm cho chúng ta xấu đi, mọi người có thể làm
cho chính họ xấu đi do tâm ích kỷ, tâm hờn giận. Tâm ích kỷ, tâm hờn giận làm
cho chính chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta không còn dễ thương nữa. Tâm ích
kỷ, tâm hờn giận làm cho hết thảy chúng sinh không còn là chúng sinh dễ thương
nữa. Do đó, sự ra đời của Đức Phật là khơi dậy tính dễ thương cho chúng ta,
khơi dậy tính dễ thương cho tất cả chúng sinh, mà trong thuật ngữ Phật giáo,
gọi sự ra đời của Đức Phật với chức năng là khai Phật tri kiến.
Ý nghĩa thứ hai:
Đức Phật ra đời là để chỉ bày cho chúng ta một con đường hạnh
phúc. Đức Phật ra đời là chỉ bày cho chúng ta một con đường an lạc và nhận diện
được đâu là con đường hạnh phúc, đâu là con đường khổ đau, đâu là giá trị cao
quý, đâu là không có giá trị ở trong cuộc sống của chúng ta.
Đức Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rằng, một đời sống có thể trở
thành cao quý khi lời nói, hành động, việc làm của họ được phát xuất từ một tâm
hồn cao quý. Đức Phật đã chỉ bày cho chúng ta cũng như tất cả chúng sinh thấy
rõ rằng, lời nói tầm thường, hành động tầm thường, việc làm tầm thường có gốc
rễ từ nơi một tâm hồn tầm thường. Tâm hồn tầm thường là tâm hồn gì? Là tâm hồn
ích kỷ, đầy dẫy tham lam, đầy dẫy sân si, đầy dẫy cố chấp, đầy dẫy kiêu ngạo.
Lời nói nào phát xuất từ tâm hồn kiêu ngạo, từ tâm hồn ích kỷ, hẹp hòi... lẽ
đương nhiên lời nói đó có khả năng tàn hoại hết thảy hạnh phúc, an lạc của
chúng ta, có khả năng tàn phá hết đời sống cao quý của chúng ta.
Muốn bảo toàn hạnh phúc, muốn bảo toàn an lạc, Đức Phật đã chỉ
bày cho chúng ta rất rõ là phải nuôi dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta
muốn hạnh phúc, an lạc mà không biết nuôi dưỡng tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì hạnh
phúc, an lạc không thể nào có được. Chúng ta muốn sống một đời sống cao thượng
mà không biết nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn từ, bi, hỷ, xả thì chúng ta
không thể nào có đời sống cao thượng được. Điều đó, Đức Phật đã chỉ bày cho
chúng ta cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ. Và hai mươi lăm thế kỷ như vậy,
những người nghe lời Đức Phật dạy, họ hành trì, họ thực tập và chính những
người đó đã có hạnh phúc, an lạc, không những hạnh phúc, an lạc ở đời sau mà
hạnh phúc, an lạc ngay trong đời này.
Bởi vậy, trong Kinh nói rằng, Đức Phật ra đời là để “Thị Phật
Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Thị Phật Tri Kiến là chỉ rõ bản chất giác
ngộ cho hết thảy chúng sinh. Khi mà chúng sinh nhận ra, thấy rõ bản chất giác
ngộ đó rồi, thì bắt đầu xây dựng đời sống hạnh phúc, an lạc cho mình và cho hết
thảy mọi người.
Ý nghĩa thứ ba:
Đức Phật ra đời khiến cho chúng sinh, dạy cho chúng sinh thành
tựu được giác ngộ ngay ở trong đời sống của chính mình. Giác ngộ là giác ngộ
ngay trong đời sống của chính mình, ngoài đời sống của chính mình ra không có
đời sống giác ngộ nào để cho chúng ta đi tìm kiếm. Chúng ta có thể tìm kiếm là
tìm kiếm giác ngộ ngay ở thân và tâm của chúng ta. Chúng ta có thể đi tìm giác
ngộ ngay trong đời sống của chúng ta, chúng ta không thể vứt bỏ cách đi, cách
đứng, cách nằm, cách ngồi, cách tiếp xúc giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà có
sự giác ngộ.
Do đó, Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta rằng, đời sống của chúng
ta, dù một kẻ tầm thường đến mức nào đi nữa cũng có khả năng giác ngộ. Một
người đau khổ tột cùng cũng có thể vươn mình đi đến đời sống hạnh phúc, an lạc.
Dù một kẻ rất tầm thường cũng có thể vươn mình đi đến đời sống thánh thiện, cao
thượng.
Điều đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta, cho hết thảy chúng sinh
hơn hai mươi lăm thế kỷ. Trong lịch sử, cũng như trong đời sống thực tế, chúng
ta đã thấy bao nhiêu kẻ trong đời sống tầm thường, họ không gặp Phật pháp, họ
không nghe được lời giáo huấn cao quý của những Bậc phạm hạnh, nhưng khi họ gặp
được thì họ có cơ duyên trở thành người cao quý.
Bao nhiêu kẻ bất hiếu với cha, bất hiếu với mẹ, nhưng khi gặp
thầy hiền, bạn tốt, sống trong một khung cảnh dễ thương, họ trở thành một con
người hiếu kính, một con người thuần thiện. Điều đó đã chứng tỏ rằng, chúng ta
có thể giác ngộ được, nhận ra được cái tính chất cao thượng của chúng ta ngay
trong đời sống của chúng ta.
Ngày xưa, khi Vua A Dục chưa gặp Phật pháp là một vị Vua hết sức
tàn ác, tàn ác đến nỗi giết cha, giết chín mươi chín người anh để đoạt ngôi.
Thế mà khi A Dục gặp được một vị Thánh tăng giáo hóa, thì bao nhiêu điều xấu ác
của ông đã trở thành con người hoàn thiện. Nói như vậy để cho tất cả chúng ta
thấy rằng, cái ác, cái xấu ở giữa đời không đâu là không có và không lúc nào là
không có. Vậy, chúng ta không sợ rằng chúng ta xấu, chúng ta không sợ rằng
chúng ta ác, mà chỉ sợ rằng, chúng ta không nhận ra điều ác để tránh, không
nhận ra được điều xấu để chúng ta từ bỏ. Chúng ta chỉ sợ rằng, chúng ta bị vô
minh ám chướng, nhận thức sai lầm, để rồi bị đầu độc mà không nhận ra được giá
trị cao quý trong đời sống của chúng ta, để chúng ta vươn mình đi tới cái cao
quý, tốt đẹp. Ngày xưa, có một vị Tổ dạy rằng:
“Bất úy tham sân khởi
Duy khủng tự giác trì”
Nghĩa là:
“Không
sợ hãi tham sân khởi dậy
Mà
chỉ sợ mình giác ngộ chậm”.
Nếu mình hiểu được đạo, giác ngộ được đạo, thì bao nhiêu xấu xa,
bao nhiêu cái tầm thường ở trong đời sống cuả mình cũng được chuyển hóa thành
cái cao thượng, có ý nghĩa. Bởi vậy, mà trong Kinh diễn tả rằng, Đức Phật ra
đời với ý nghĩa là “Ngộ Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh, nghĩa là làm
cho hết thảy chúng sinh giác ngộ được những gì mà Đức Phật đã giác ngộ, hiểu rõ
bản thân mình đúng như những gì mà tuệ giác đã nhận ra, chứ không phải hiểu bản
thân mình bằng vô minh ái nghiệp.
Ý nghĩa thứ tư:
Đức Phật ra đời dạy dỗ, giáo hóa, dìu dắt, hướng dẫn khiến cho
chúng ta và hết thảy chúng sinh đều sống cuộc đời như Đức Phật đã sống. Nghĩa
là, Đức Phật đã sống như thế nào, Đức Phật biết như thế nào thì Ngài sống như
thế đó, Ngài nói như thế nào, thì Ngài làm như thế đó. Ngài làm như thế nào,
thì Ngài nói như thế đó. Ngài biết rằng tham là nguy hiểm, tham là mất nhân
cách, tham là làm cho mình nghèo đi, Ngài biết như vậy cho nên ngài không tham.
Còn ai thấy tham làm cho mình giàu , làm cho mình hạnh phúc thì người đó cứ
tham. Nhưng càng tham lam thì lại càng đau khổ, càng tham thì lại càng mất nhân
cách.
Đức Phật nói, càng tham thì lại càng làm cho mình tầm thường,
càng tham thì làm cho mình càng nhỏ nhoi; càng tham thì lại càng làm cho cha
con xa nhau, càng tham thì lại càng làm cho vợ chồng xa nhau, anh em xa nhau,
bạn bè xa nhau. Đức Phật đã nói điều đó hơn hai mươi lăm thế kỷ và những kẻ trí
ở trong đời, họ đã đón nhận nó và đã sống. Những người nào sống trong đời sống
với tâm ly tham thì người đó đầy đủ nhân cách, người đó thật sự hạnh phúc.
Người đó sống trong gia đình họ hạnh phúc, người đó đi giữa họ
hàng họ hạnh phúc, họ đi ra giữa xã hội họ hạnh phúc, họ đem được nhiều lợi ích
cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội và người đó không những hạnh phúc trong
đời này , mà đời sau họ cũng hạnh phúc.
Bởi vậy, Như Lai nói những gì Như Lai biết, Như lai đã làm, Như
lai đã chứng nghiệm, Như Lai đã thấy rõ, Như Lai đã sống. Như vậy, Đức Phật ra
đời với ý nghĩa thứ tư là những gì Ngài nói thì Ngài đã làm và những gì Ngài đã
làm Ngài mới nói. Còn tất cả chúng ta chưa làm mà đã nói, chưa làm được việc
nào tốt đẹp cả mà khoa trương, lắm lời về sự tốt đẹp. Tất cả chúng ta chỉ nói
lên những lời tốt đẹp, mà không làm những điều tốt đẹp. Do đó, cái xấu, cái
khổ, cái thất vọng vẫn luôn luôn theo đuổi chúng ta như bóng với hình.
Với ý nghĩa thứ tư này, trong Kinh diễn tả mục đích của Phật ra
đời là “Nhập Phật Tri Kiến” cho hết thảy chúng sinh. Nghĩa là, Đức Phật bước đi
là bước đi bằng tuệ giác. Ngài đứng là cách đứng của tuệ giác. Ngài nằm là cách
nằm của tuệ giác. Ngài ngồi là cách ngồi của tuệ giác. Ngài nhìn là cách nhìn
của tuệ giác. Ngài nghe là cách nghe của tuệ giác. Ngài ngửi là cách ngửi của
tuệ giác. Ngài thở là cách thở của tuệ giác. Bởi vì, tất cả những cái đi, đứng,
nằm, ngồi, nói, cười, tiếp xúc bằng năng lượng tuệ giác đó, nên trong đời sống
của Đức Phật không còn mảy may sai lầm.
Còn chúng ta đi, đứng, nằm, ngồi bằng vọng niệm. Chúng ta nói,
nhìn, nghe, ngửi, ăn bằng điên đảo tưởng. Chính cái điên đảo tưởng đó thúc đẩy
chúng ta đi vào con đường khổ đau, con đường bất ổn. Bởi vậy, suốt hơn hai mươi
lăm thế kỷ, bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong đời sau khi nghe những lời Phật
dạy, đem những lời Phật dạy đó vào trong đời sống của mình để thực tập, để sống
và bao nhiêu bậc Thánh trí ở trong đời đã có hạnh phúc, đã có an lạc.
Vua Trần Nhân Tông là một vị Vua anh minh của Việt Nam , đã cảm
nhận được Phật pháp rất sâu xa. Cho nên, Vua đã phát biểu trước triều đình của
nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ như thế này: “Cảm Đức từ bi muôn kiếp nguyện cho
thân cận!”
Sau khi Vua Trần Nhân Tông học Phật, tu Phật, thấy được cái cao
quý của Phật, muốn mình trở thành như một vị Phật. Do đó, Vua đã chọn cho mình
một Pháp hiệu là: Điều Ngự Giác Hoàng. Giác Hoàng tức là nhà Vua giác ngộ. Điều
Ngự là một trong những phẩm tính của Phật. Phẩm tính đó có khả năng thuần hóa
hết thảy chúng sinh.
Vua Trần Nhân Tông chọn cho mình phẩm hiệu là Điều Ngự Giác
hoàng. Nghĩa là, nhà Vua giác ngộ thuần hóa nhân dân Việt nam trong tinh thần
Phật giáo, trong tinh thần của đạo lý giác ngộ. Tại sao Vua Trần Nhân Tông phải
chọn Phật giáo làm một nền tảng giáo dục dân chúng sống đúng tinh thần Phật
giáo. Vì, chỉ có tinh thần Phật giáo là tinh thần bao dung, tinh thần hỷ xả.
Chỉ có xây dựng theo tinh thần Phật giáo mới làm cho gia đình bình ổn, làm cho
tâm hồn của mỗi con người bình ổn. Từ tâm hồn của mỗi con người được bình ổn sẽ
đưa đến gia đình bình ổn, và mỗi gia đình bình ổn sẽ đưa đến họ hàng bình ổn.
Mỗi gia đình bình ổn sẽ đưa đến xóm làng bình ổn. Xóm làng bình ổn sẽ đưa đến
từng phường, xã bình ổn. Từng phường xã bình ổn sẽ đưa đến quận huyện bình ổn.
Nhiều quận, huyện bình ổn sẽ đưa đến phố thị bình ổn, tỉnh thị bình ổn. Nhiều
tỉnh thị bình ổn sẽ đưa đến quốc gia bình ổn. Nhiều quốc gia bình ổn sẽ đưa đến
thế giới bình ổn. Mỗi thế giới bình ổn sẽ đưa đến toàn thể vũ trụ sống trong
một quy luật trật tự, hạnh phúc.
Như vậy, một trật tự lớn lao có thể bình ổn được khi tâm của mỗi
chúng sinh bình ổn, nghĩa là phải khơi mở cho được Phật tính nơi họ. Mỗi người
phải biết trở về sống với cái dễ thương nơi mình, cái dễ thương nơi mình chính
là Phật tính, cái quý giá nhất nơi mình chính là Phật tính. Chúng ta trở về lại
với cái cao đẹp nhất nơi chúng ta là Phật tính.
Phật tính nằm ở đâu? Phật tính nằm trong tâm hồn của chúng ta.
Chúng ta thấy rằng, Đức Phật ra đời để khơi mở, chỉ cho chúng ta rằng trong tâm
chúng ta có Phật tính. Ngài chỉ trong tâm quý vị có Phật tính, quý vị đã thấy
chưa?
Ai thấy rồi thì ngộ, ai chưa thấy thì mê. Quý vị thấy trong tâm
quý vị có Phật tính thì quý vị ngộ, quý vị sẽ đi trên con đường sáng. Quý vị
không thấy trong tâm quý vị có Phật tính thì quý vị mê. Mê thì quý vị đi vào
con đường tối tăm, mù mịt và dù có hai mắt mà vẫn tối thui, có hai chân mà vẫn
què, có hai tay mà vẫn không nắm được gì, có mũi mà không ngửi được, có tai mà
vẫn không nghe được. Nhưng, nếu ta thấy trong tâm ta có Phật tính, ngộ được
Phật tính đó thì ta có cơ hội đi lên, có cơ hội đi tới với hạnh phúc, an lạc,
với giải thoát, với chân trời mở rộng.
Ý nghĩa thứ năm:
Ngộ rồi chưa đủ, phải thể nhập với Phật tính đó và biểu hiện
Phật tính đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Như vậy ngộ rồi thì phải
nhập, mà nhập rồi thì phải xuất, nhập mà không xuất thì nghĩa nhập đó không
thành. Bởi vì, nhập mà không xuất thì bí, cho nên nhập là phải xuất. Trong vô
lượng kiếp về trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng hành Bồ Tát đạo. Từ nơi
Đức Phật Oai Âm Vương cách đây hàng tỉ tỉ kiếp, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã
từng học với Đức Phật Oai Âm Vương. Đức Phật Oai Âm Vương đã từng khai, thị,
ngộ, nhập, tri, kiến cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Và sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni nhập được Phật tri kiến rồi, Ngài bắt đầu xuất ở nơi thế giới Ta Bà này.
Xuất ở nơi thế giới Ta Bà này, Ngài vui với cái vui của chúng
ta, buồn với cái buồn của chúng ta, Ngài nằm gai nếm mật với chúng ta. Khi Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong mười phương thế giới, xuất hiện trong cõi
Ta Bà này là Ngài bắt đầu đi con đường của Thánh đạo, con đường Bồ Tát để đưa
mình và hết thảy chúng sinh đi về với con đường giác ngộ.
Tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni là ai? Tiền thân của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni mà trong Kinh Pháp Hoa đã ghi lại chính là Bồ Tát Thường Bất
Khinh. Bồ tát Thường Bất Khinh là một vị Bồ Tát không dám khinh ai cả và là một
vị Bồ tát chuyên thực hành hạnh không dám khinh ai cả. Vì sao bồ Tát Thường Bất
Khinh là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni và Ngài không dám khinh ai cả? Bởi
vì, Ngài thấy rõ chúng sinh dù tầm thường đến mức nào đi nữa, họ cũng có cái
cao quý của họ.
Sở dĩ họ tầm thường là vì họ không gặp được thầy, không gặp được
bạn, không gặp được người cha, người mẹ, người anh, người chị dễ thương. Do đó,
cái tầm thường mới lem ố ra trong đời sống của họ. Giá như những chúng sinh tầm
thường đó mà gặp được thầy hiền, bạn tốt, gặp người cha dễ thương, người mẹ dễ
thương, người anh, người chị dễ thương, thì nhất định sớm muộn gì họ cũng dễ
thương thôi.
Chúng sinh, tầm thường như vậy là vì họ sinh ra trong xã hội gặp
vị vua, quan không dễ thương, cho nên, lâu ngày cái không dễ thương của ông
vua, ông quan làm lấm lem họ. Nếu họ có phúc gặp được vị vua dễ thương, vị quan
dễ thương, vị minh quân dễ thương, vị minh chúa... thì người dân đó lâu ngày
cũng trở thành hiền thiện, quý báu. Bồ tát Thường Bất Khinh thấy rõ như thế và
yêu đời như thế. Cho nên, Bồ tát Thường Bất Khinh thấy một người tầm thường,
Ngài cũng không thất vọng. Ngài thấy một người tầm thường Ngài cũng đứng ở xa
kính lễ và Ngài nói rằng: “Tôi không dám khinh các Người, tôi không dám khinh
các Ngài, các Ngài sẽ đi trên con đường Thánh đạo, các Ngài sẽ đi trên con
đường Bồ Tát đạo, các Ngài tương lai sẽ làm Phật”.
Tôi không dám khinh các Ngài, lời nói cao đẹp đó dù bị đôi đá,
dù bị nguyền rủa... Bồ Tát Thường Bất Khinh vẫn không hề nổi cơn giận dữ, vẫn không
hề trễ nải nói lên những lời tốt đẹp đó. Quý vị có biết, Bồ Tát Thường Bất
Khinh ở trong Kinh Pháp Hoa là ai không? Là tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni.
Ngài thể nhập được Phật tính rồi thì bây giờ Ngài phải xuất Phật
tính ra, phải thể hiện Phật tính ra cho mọi người. Mà thể hiện Phật tính đó là
tính không giận dữ. Đứng trước một nghịch cảnh, mình đem lời chúc tụng cho
người, thế mà người không nhận lại còn thóa mạ, còn vác đá ném mình nữa, nhưng
Ngài vẫn không giận dữ.
Ngài vẫn thương người vác đá ném mình một cách chân tình: “Tôi
không dám khinh Người đâu, Người chưa biết thì vác đá ném tôi như vậy đó, nhưng
mai mốt Người biết rồi, thì Người hết ném tôi thôi. Tôi không dám khinh quý vị
đâu, tôi không dám giận quý vị đâu. Mặc dầu hôm nay, tôi biết quý vị nói xấu
tôi đó, tìm cách hại tôi đó, tìm cách nhục mạ tôi đó, nhưng tôi không dám khinh
quý vị đâu, tôi không giận quý vị đâu, tôi rất thương quý vị.
Bởi vì, quý vị chưa hiểu tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải;
quý vị chưa nhận ra tôi thì quý vị nguyền rủa tôi là phải, nhưng, mai mốt quý
vị nhận ra được sự thật rồi, khi đó không ai bảo quý vị phải thương tôi, mà quý
vị vẫn thương như thường”.
Công trình tu học đó là công trình mà Đức phật Thích Ca Mâu Ni
đã thực hành trải dài hàng thế kỷ. Bây giờ đây chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni ra đời, có phải chúng ta làm lễ kỷ niệm suông không? Có phải
chúng ta đến nơi lễ đài để lạy Phật, nhưng xong rồi chứng nào vẫn giữ tật nấy
hay không?
Nếu chúng ta đến nơi một lễ đài, để rồi chen nhau lạy, sau đó về
nhà và chứng nào vẫn giữ tật nấy, xem người như rơm rác, thì thiết lập lễ đài
để làm gì?. Chúng ta phải thiết lập lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta.
Chúng ta phải xây dựng cho được lễ đài ngay trong đời sống của chúng ta, cái lễ
đài đó mới thật sự quan trọng. Chúng ta đừng khờ khạo góp tiền hàng triệu bạc,
hàng chục triệu bạc để rồi làm công việc dã tràng xe cát biển đông.
Chúng ta đừng bỏ ra cả một đời người để làm một công việc như
vậy. Chúng ta phải biến lễ đài thành lễ đài ngay chính trong tâm hồn chúng ta
và lễ đài khi đã được thiết trí trong tâm hồn của chúng ta, thì lẽ đương nhiên
chúng ta đi đâu, ở đâu, lúc nào, ngủ, thức đều có Phật cả.
Thưa quý vị! Tại sao Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, khi thực hành Bồ
Tát đạo, Ngài làm được những việc đó? Bởi vì, Ngài ngộ được tri kiến Phật, Ngài
nhập được tri kiến Phật. Và khi ngộ, nhập Phật tri kiến rồi, Ngài thương hết
thảy chúng sinh. Cho nên, Ngài mới xuất hiện trong cõi Diêm Phù Đề này với
chúng ta. Nhưng tại sao Ngài không xuất hiện trên loài hoa Sứ mà lại chọn hoa
Sen để xuất hiện?.
Ngài xuất hiện trên hoa Sen có ý nghĩa gì? Nghĩa là khi một Đấng
giác ngộ đã khơi mở được Phật tính nơi chính mình, đã thấy rõ được Phật tính
nơi chính mình, đã giác ngộ được Phật tính nơi chính mình và đã thể nhập trọn
vẹn được Phật tính nơi chính mình qua đời sống hằng ngày, thì vị đó sống giữa
trần thế mà không bị ô nhiễm.
Vị đó đi vào danh mà không bị danh làm cho ô nhiễm, đi vào trong
lợi mà không bị lợi làm cho ô nhiễm. Vị đó đi vào trong danh mà không bị danh
trói buộc, đi vào trong lợi mà không bị lợi trói buộc, đi vào trong cái mùi vị
mà không bị cái ăn trói buộc, mặc áo mà không bị vải vóc, gấm lụa trói buộc,
uống nước mà không bị rượu, bia, bò húc, trói buộc.
Tất cả những cái ô nhiễm, không bị trói buộc đó là biểu tượng
cho hoa Sen. Hoa Sen ở trong bùn mà không bị ô nhiễm. Bởi vậy, Đức Phật xuất
hiện trên cõi đời, Ngài đi trên bảy hoa Sen là vậy đó. Hoa Sen là vô nhiễm, là
không còn mắc kẹt bởi nước, bởi bùn, mặc dù hoa Sen từ bùn, từ nước mà lớn lên
và trưởng thành.
Khi một Đấng tuệ giác mà thành tựu Phật tri kiến rồi, Phật tri
kiến đó từ chúng sinh mà ra, nhưng khi đã thành tựu Phật tri kiến thì không còn
mắc kẹt cái tầm thường của chúng sinh nữa. Bởi vậy, Đức Thích Ca Mâu Ni từ cung
trời Đâu Suất đã hóa thân thị hiện trong cõi Diêm Phù Đề này và nằm trong bụng
Ma Ya phu nhân.
Ngài không phải nằm trong bụng mẹ như những thai nhi khác, Ngài
nằm nơi đó vì đại nguyện, đại trí, đại bi. Còn chúng ta vì vô minh ái nghiệp,
vì u mê ám chướng mà vào nằm trong bụng mẹ. Bởi vậy trong Kinh Hoa Nghiêm dạy
rằng: “Khi Bồ Tát Tất Đạt Đa nằm trong thai tạng hoàng hậu Ma Ya, Ngài đã
thuyết pháp cho hàng Bồ Tát khắp cả mười phương thế giới”.
Chúng ta đừng cho rằng đây là một ảo tưởng, mà đây là một tuệ
giác, đây là một điều khoa học có thể chứng minh được. Đức Phật khi nằm trong
thai tạng hoàng hậu Ma Ya, Ngài thuyết pháp bằng năng lượng của tuệ giác,
thuyết pháp bằng ánh sáng của tuệ giác.
Từ trong thai tạng mà tỏa ra vô số ánh sáng, giao tiếp với vô số
Bồ Tát khắp cả mười phương. Và Bồ tát khắp cả mười phương vẫn ngồi ở thế giới
của mình mà tiếp nhận ánh sáng tuệ giác đó mà nói chuyện với Bồ Tát Tất Đạt Đa,
tức là hóa thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Điều này, trong vòng khoảng ba trăm năm nữa khoa học sẽ phát
hiện được. Một thai phụ ở bên Mỹ, bằng tia laser ta có thể ngồi ở Việt Nam mà
nhìn được thai nhi. Bây giờ khoa học mới tìm tòi, phát hiện được tính nam hay
nữ của thai nhi từ 5 đến 6 tháng bằng siêu âm.
Cho nên, những gì Phật nói, những gì Đức Phật dạy là những gì
mới tinh của khoa học và khoa học là một học trò ấu trĩ của Phật giáo. Tôi nói
khoa học là học trò ấu trĩ, ngây ngô của Phật giáo, cho nên, quý vị Phật tử
đừng có ảo tưởng là duy khoa học! Có đôi người mù quáng, tầm thường, thấy khoa
học thành công một vài lãnh vực thì đã hô hào duy khoa hoc, nhưng cái duy khoa
học chỉ là cái ấu trĩ của Phật giáo mà thôi!
Bởi vậy, Đức Phật xuất hiện trong cõi đời này, Ngài đi trên bảy
hoa Sen để chứng tỏ rằng, Ngài xuất hiện trên cõi đời này với tâm vô nhiễm, với
trí vô nhiễm, với tuệ vô nhiễm. Ngài thương yêu mà vô nhiễm, còn chúng ta
thương là nhiễm, chúng ta không thương thì thôi, còn thương là nhiễm, thương là
kẹt.
Bồ Tát thương không kẹt, Phật thương không kẹt, cũng như hoa Sen
sinh ra từ bùn mà không kẹt bùn, nó sinh ra từ nước mà nó không kẹt nước, nó
sinh ra từ sự tanh hôi mà nó không kẹt bởi sự tanh hôi đó. Vì ý nghĩa này, mà
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài xuất hiện trên hoa sen, Ngài ngồi trên hoa Sen,
Ngài đứng trên hoa Sen.
Ý nghĩa thứ sáu:
Tại sao Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài đi bảy bước
trên hoa Sen? Một đặc điểm khác nữa của hoa Sen là Hoa nở Sen hiện. Nghĩa là,
Đức Phật, dạy giáo pháp của Ngài, nếu chúng ta quyết tâm hành trì, thì sẽ có an
lạc ngay, đó là “Hoa nở Sen hiện”!.Không tu thì thôi, tu là tức khắc có an lạc
ngay! Cho nên, những ai tu tập mà không có an lạc thì phải coi chừng! Phải tu
lại!. Tôi tu một giờ là tôi có hạnh phúc một giờ, không có lý do gì mà tu một
giờ mà không có hạnh phúc, an lạc một giờ.
Nếu tu một giờ mà khổ đau thì đừng tu,
cho nên, tôi tu một giờ là tôi có hạnh phúc, an lạc một giờ, đó là hoa nở Sen
hiện. Tu một giờ là có hạnh phúc, an lạc một giờ. Tu hai giờ là có hạnh phúc,
an lạc hai giờ. Tu mười năm là có hạnh phúc, an lạc mười năm. Tu một trăm năm
là có hạnh phúc, an lạc một trăm năm. Không có lý do gì tu mà khổ cả! Nhiều
người Phật tử thường đi chùa, nhưng có những lời nói thiếu ý thức. Có người con
muốn xuất gia nhưng cha mẹ không đồng ý, vì cho rằng, đi tu phải thức khuya, dậy
sớm.
Vậy thì ai thức khuya dậy sớm để bây giờ
dạy đạo, giảng đạo cho mình? Quý vị nhìn lại về cách hiểu đạo, cách tu tập của
mình! Chỉ có người không biết tu tập mới khổ mà thôi. Tôi nhắc lại với quý vị
rằng, chỉ có người không tu tập mới khổ, còn chúng ta tu tập một ngày là hạnh
phúc một ngày, tu hai ngày là hạnh phúc hai ngày, tu cả đời là hạnh phúc cả
đời, tu hằng kiếp là hạnh phúc hằng kiếp.
Tu là có hạnh phúc, đó là hoa nở Sen
hiện. Vì vậy, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Ngài vui với cái vui rất trọn vẹn. Do
vậy mà các nghệ sĩ đã điêu khắc tượng của Ngài chỉ cười mỉm thôi, cười nửa
miệng thôi! Chỉ có cười mỉm là cái cười trọn vẹn. Tôi nhắc lại chỉ có cười mỉm
mới là cái cười trọn vẹn. Cười mỉm là cái cười của trung đạo, còn cái cười toe
toét như cái cười đi dự tiệc cưới là cái cười mang tính chất thất vọng, khổ đau
sau đó! Và cũng không phải cái mặt méo mó như đi thăm đám ma!
Đám cưới và đám ma là hai thái cực của
cuộc sống. Chỉ có cười mỉm mới là cái cười độc đáo của cuộc sống. Chỉ khi nào
có tuệ giác mới cười mỉm được. Thấy tiệc cưới cũng cười mỉm, thấy đám ma cũng
cười mỉm, người ta khen mình cũng cười mỉm, người ta chê mình cũng cười mỉm.
Như vậy cái cười mỉm là cái cười độc đáo nhất mà chỉ có Đức Phật mới cười nổi
vậy! Vì sao chỉ có Đức Phật mới cười mỉm nổi? Vì, chỉ có Đức Phật mới thể nhập
được tuệ giác trong đời sống của chính Ngài.
Ý nghĩa thứ bảy:
Một đặc điểm nữa là, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, trên
hoa Sen là bởi vì, hoa Sen còn có một đặc điểm nữa là “hoa rụng Sen thành, Hoa
nở thì Sen hiện”. Sự xuất hiện của Đức Phật trên hoa Sen để nói cho chúng ta
thấy rằng, cái chết là bắt đầu của cái sống, cái sống đây là bắt đầu của cái
chết. Sự xuất hiện cũng có nghĩa là bắt đầu của một sự ẩn khuất. Ngài ẩn khuất
ở nơi thế giới Liên Hoa Đài Tạng thì Ngài có mặt ngay nơi thế giới Ta Bà này.
Rụng là rụng từ thế giới Liên Hoa Đài Tạng, mà thành là thành nơi thế giới Ta
Bà. Cho nên, đối với cái sống, cái chết ở trong đạo Phật không còn là cái gì
nữa để chúng ta sợ hãi, lo âu. Chúng ta vắng mặt ở nơi này thì ta có mặt ở nơi
kia, chúng ta vắng mặt ở nơi gia đình chúng ta thì chúng ta có mặt ở nơi chùa
Phước Duyên, chúng ta vắng mặt ở chùa Phước Duyên thì chúng ta có mặt ở nơi gia
đình chúng ta.
“Hoa rụng Sen thành”, Bồ Tát Tất Đạt Đa
vắng mặt ở thế giới Liên Hoa Đài Tạng, thì Ngài có mặt ở nơi thế giới Ta Bà
này. Đức Phật vắng mặt ở nơi cõi Ta Bà này, thì Ngài có mặt ở thế giới Liên Hoa
Đài Tạng, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài không đi trên hoa Sứ, Ngài
không đi trên hoa Cúc. Mặc dù, hoa Cúc được xem là biểu tượng cho những nhà ẩn sĩ,
đạo sĩ.
Nhưng Đức Phật không xuất hiện trên hoa
Cúc, mà Ngài chỉ xuất hiện trên hoa Sen thôi. Bởi vì, hoa Cúc không phải là vô
nhiễm, hoa Cúc không phải là “hoa nở Cúc hiện, hoa rụng Cúc thành”, mà chỉ có
hoa Sen mới có những đặc điểm như thế. Cho nên, Đức Phật mới xuất hiện trên hoa
Sen và Ngài đi bảy bước.
Tại sao Ngài đi bảy bước mà không đi tám
bước hay một bước, mười bước? Bởi vì, sự cấu hợp của vũ trụ không ra ngoài con
số bảy, sự có mặt của tất cả chúng ta không ra ngoài con số bảy: địa đại, thủy
đại, hỏa đại, phong đại, không đại, tâm đại, thức đại. Toàn thể vũ trụ hay sự
hình thành của chúng sinh không ra ngoài bảy yếu tố này. Sự có mặt của chúng ta
là do sự có mặt của bảy yếu tố trên. Và sự có mặt của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
là sự có mặt của bảy yếu tố đó.
Chính từ bảy yếu tố đó, mà một vị thể
nhập được cái “tri kiến Phật” thì sẽ thành tựu được bảy yếu tố giác ngộ, gọi là
thất bồ đề phần. Bảy yếu tố: địa, thủy, hỏa, phong, không, tâm, thức tạo nên
hình hài, tâm trạng, tinh thần của mỗi chúng sinh, thì bảy yếu tố là “thất bồ
đề phần” tạo nên của Đấng Giác Ngộ. Cho nên bảy yếu tố tạo nên chúng sinh và
bảy yếu tố tạo nên Đấng Giác Ngộ. Bởi vậy, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này,
Ngài không đi tám bước mà Ngài đi bảy bước thôi!
Ý nghĩa thứ tám:
Thế thì, ngày hôm nay chúng ta làm lễ kỷ niệm Đức Phật ra đời,
có phải rằng chúng ta chỉ biết nấu vài chén chè, vài dĩa xôi đặt lên bàn Phật
không? Chúng ta có thể nấu vài dĩa xôi, vài chén chè đặt trên bàn Phật với tâm hồn
nào? Chúng ta đặt trên bàn Phật với tâm trạng một lữ khách đang thực tập khai
Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến thì
chè, xôi đó cũng trở thành pháp lạc, cũng trở thành đề hồ. Trái lại, chúng ta
đặt xôi, chè lên bàn Phật với u mê, tham lam, ích kỷ, hẹp hòi, tầm thường, hèn
mạt, thì xôi, chè đó trở thành đất, đá.
Thưa quý vị!. Chúng ta làm lễ kỷ niệm ngày đản sinh của Đức
Phật, chúng ta phải làm thế nào đó để Đức Phật trong chúng ta phải ra đời mỗi
ngày. Chúng ta làm lễ Đức Phật đản sinh, nghĩa là chúng ta có khả năng làm cho Đức
Phật trong ta đản sinh mỗi ngày và chúng ta làm được như thế là chúng ta rất
giàu!
Chứ chúng ta không đợi 365 ngày mới đến
chùa làm lễ đản Sinh, Phật tử đâu mà nghèo nàn đến như thế, tu hành đâu mà tội
nghiệp như thế! Chúng ta phải làm như thế nào đó để Đức Phật trong chính chúng
ta đản sinh mỗi ngày và mỗi ngày chúng ta phải thấy được Phật đản sinh. Còn ai
mà không có khả năng làm cho Đức Phật của mình đản sinh hằng ngày, thì cứ đợi
đi! Lo về chợ Đông Ba mà mua bán cho gắt, tới các cơ quan mà làm việc cho gắt,
rồi đợi 365 ngày đến chùa Từ Đàm mà làm lễ, đến chùa Phước Duyên mà làm lễ, đến
chùa Từ Hiếu mà làm lễ và nếu rủi ro, không gặp ngày chủ nhật, mình phải đi thi
hoặc đi chấm thi... thì coi như Đức Phật tắt ngòi, hết ra đời luôn! Hết đản
sinh luôn!
Còn nếu chúng ta thông minh, chúng ta
biết làm cho Đức Phật chúng ta đản sinh mỗi ngày, thì Ma vương phải khóc, quỷ
thần phải khóc, những kẻ manh tâm phá hoại Phật giáo phải khóc, phải giong tay
đầu hàng. Chúng ta có khả năng làm cho Đức Phật chúng ta ra đời mỗi ngày, thì
chúng ta không cần phải xin phép ai để tổ chức đại lễ cả. Nhưng vì u mê, chúng
ta không làm cho Đức Phật trong chúng ta đản sinh mỗi ngày, nên chúng ta phải xin
phép tổ chức lễ Phật Đản.
Cho nên, chúng tôi nói với tất cả quý vị là Phật tử
thì chúng ta phải thông minh, làm cho Phật trong mỗi chúng ta đản sinh mỗi ngày
và mỗi ngày chúng ta được đỉnh lễ Phật đản sinh của chúng ta, đó mới thật sự là
người đệ tử của Phật làm lễ kỷ niệm đản sinh một cách thông minh, một cách tài
tình, một cách có trí tuệ và là một phương tiện thiện xảo. Ta mới có khả năng
đi những bước vững chãi trên những hoa Sen, còn nếu không thì chỉ là hoa Sen vẽ
trên giấy mà thôi. Trước khi dứt lời, cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho tất cả quý
vị sống một cuộc đời luôn luôn có Phật Đản Sinh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]