
Ở đây giải
thích mười điều lành là hằng lìa dứt nghiệp sát sanh, trộm cướp, tà hạnh, vọng
ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân nhuế và tà kiến. Chỉ kể tên mười
điều lành, nghe hơi khó hiểu, sau đây tôi giảng từng điều cho quí vị hiểu.
1- Không sát sanh
Người cư sĩ tại gia mới tu, trước hết là không giết người. Chẳng
những tự thân mình không giết người, mà miệng cũng không xúi bảo người giết và
ý cũng không thích vui khi nghe người giết nhau. Quí vị thấy giữ một giới không
giết người có dễ không? Thân không giết thì dễ rồi, miệng không bảo người giết
cũng có thể giữ được. Nhưng ý không giết thì khó, vì nếu kẻ đó là người gây cho
mình nhiều khổ đau, khi nghe họ chết thì mình cảm thấy vui. Ðó là ý giết người.
Thế nên ý giết người khó tránh. Người nào gây khổ đau cho mình, khi nghe họ bị
hại, mình không khởi tâm vui mừng mà lòng cảm thấy thương xót, như thế mới thật
là giữ giới không giết người. Ðó là nấc thang thứ nhất của người tu. Tu như vậy
cũng chưa đủ vì chỉ được quả đời sau không bị người giết. Thế nên phải tu thêm
nữa, là đối với những con vật lớn như trâu, bò, heo, chó ... cũng không giết.
Giới không sát sanh bao hàm từ thô đến tế. Tùy khả năng của mỗi
người, có người chỉ giữ được không giết người. Người khá hơn thì giữ thêm,
không giết những con vật lớn như trâu, bò, heo, dê ... đó là tiến được một tầng
nữa. Không giết người thì được quả báo đời sau sanh thân người, an ổn không bị
người giết. Nếu giữ thêm không giết loài vật thì phước báo thêm lớn, có thể
sanh lên cõi trời. Nhưng nghiệp sát vẫn còn đối với những vật nhỏ như gà, vịt,
cá, tôm ...Vì vậy mà chưa dứt sạch mầm giết hại, nên vẫn còn sanh đi tử lại,
để đền bù mạng sống của chúng sanh, chớ chưa thoát ly sanh tử. Chừng nào dứt
hết nghiệp sát, cho đến con dế, con trùn, con muỗi ... vẫn một lòng thương xót
không giết hại thì mới giữ được giới sát viên mãn. Chỗ này phải hàng Thanh văn,
Duyên giác, Bồ-tát mới thực hiện được. Quí vị thấy, chỉ một giới thôi mà hành
động có khác.
Do hành động giữ giới khác nên quả báo cũng khác. Một giới mà chúng
ta có thể thành người, cũng một giới đó mà chúng ta có thể thành trời, cũng một
giới đó mà chúng ta có thể thành A-la-hán thành Bồ-tát ... Như thế quí vị đừng
nghĩ tôi thọ năm giới là có giữ giới sát rồi! Mới nghe thì thấy giản dị dễ
dàng, nhưng giữ cho trọn vẹn phải hàng La-hán, Bồ-tát ... mới giữ nổi. Các vị
La-hán, Bồ-tát giữ giới sát chẳng những nơi thân nơi miệng, mà nơi ý nữa. Các
Ngài không còn tâm niệm sát hại, từ người đến thú lớn như trâu, bò ... thú nhỏ
như kiến, muỗi ... một lòng thương xót và tôn trọng mạng sống của chúng sanh.
Nếu thấy người giết dù là loài vật nhỏ như cá, tôm ... cho đến trùn, kiến ...
mà sanh lòng vui thích, là còn chủng tử sát hại nơi tâm niệm. Như vậy là giữ
giới chưa trọn vẹn. Giữ giới trọn vẹn viên mãn chỉ có bậc Thánh mới giữ được.
Còn hàng phàm phu chúng ta chỉ giữ được phần thô chớ phần tế chưa giữ nổi.
2- Không trộm cướp:
Không trộm cướp cũng giữ từ thô đến tế. Hàng cư sĩ tại gia giữ
giới không trộm cướp là không lấy của người khi chủ nó không cho. Cho đến tiền
của, súc vật, cây cỏ ... chủ không cho mà tìm cách lừa gạt để thuộc về mình, đều
gọi là trộm cướp.
3- Không tà hạnh
Người cư sĩ tại gia khi đã có gia đình chỉ một chồng một vợ,
tình cảm không đổi thay, không lang chạ với những người nữ người nam khác. Còn
người xuất gia là phải sống độc thân giữ phạm hạnh, không được dâm dục. Không
sát sanh, không trộm cướp, không tà hạnh là ba nghiệp lành của thân.
4- Không nói dối
Nói dối là chuyện có nói không, chuyện không nói có, nói trái
với sự thật để mưu cầu quyền thế, danh lợi ... cho mình. Ngược lại nói đúng với
sự thật là không nói dối. Trong giới không nói dối có những trường hợp châm chước,
chẳng hạn nói trái với sự thật để cứu người cứu vật thì không phạm. Nói dối đó
là vì lòng từ bi làm lợi ích cho người vật, chớ không phải vì lòng tham. Phật
dạy không nói dối mà phải nói lời chân thật.
5- Không nói hai lưỡi
Nói hai lưỡi là nói chia lìa giữa hai người thân nhau. Ví dụ
trong gia đình, hai anh em đang thuận hòa. Có người nói với người em: "Anh
chú nói chú là người tham lam, háo danh, háo lợi ...". Rồi tới người anh
nói: "Em chú nói chú là người điêu ngoa xảo trá ...". Hai anh em nghe
nói thế, buồn lòng bất hòa nhau. Ðó là nói hai lưỡi. Trong phạm vi gia đình xã
hội thì gọi là nói hai lưỡi. Rộng đến quốc gia quốc tế dùng trong lãnh vực
chánh trị thì gọi là nói ly gián. Phật dạy không nên nói hai lưỡi mà phải nói
thuận hòa.
6- Không nói lời hung dữ
Là không nói lời ác như nói thô tục, mắng nhiếc, chửi bới, trù
rủa người. Do ác khẩu đưa đến đánh đập chém giết lẫn nhau, gây đau khổ cho nhau
từ gia đình đến xã hội. Vì vậy Phật dạy phải nói lời hiền thiện ôn hòa hằng xa
lìa lời nói ác.
7- Không nói lời trau
chuốt
Nói trau chuốt là nói bóng bẩy, ngoa mị không trung thực, nói
cốt để lừa bịp người thủ lợi cho mình. Hoặc nói để mê hoặc người đi vào vòng
tội lỗi. Phật dạy không nên nói trau chuốt, phải tránh xa, mà nên nói lời ngay
thật. Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời hung dữ, không nói lời
trau chuốt là bốn nghiệp lành của miệng, người tu theo Phật phải thực hành.
8- Không tham dục
Tham dục là ưa thích say mê thụ hưởng năm món dục lạc ở thế gian
như tài, sắc, danh, thực, thùy (tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ
nghỉ). Ngũ dục tế hơn là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nghĩa là những hình tướng nhan
sắc đẹp mà người mê đắm gọi là tham sắc. Những âm thanh êm ái du dương, người
tham đắm gọi là tham thanh. Những hương thơm, người tham đắm gọi là tham hương.
Những vị ngon, ngọt, béo ..., người tham đắm gọi là tham vị. Những xúc chạm êm
ái, người tham đắm gọi là tham xúc. Vậy năm dục thô hay tế mà người mê đắm gọi
là tham dục.
Bảy pháp thiện trên tương đối dễ, chúng ta có thể làm được, tới
pháp thiện thứ tám chúng ta thấy khó làm, vì nó vi tế thuộc về tâm. Cho nên đối
với năm dục người nào không tham tài thì tham sắc, người nào không tham sắc thì
tham danh, người nào không tham sắc không tham danh thì tham thực, thích ăn
ngon, người nào không tham tài, sắc, danh, thực thì tham thùy, thích ngủ nghỉ,
ngủ li bì. Trong năm món đó ít ai tránh khỏi, không kẹt cái này thì cũng kẹt
cái kia. Mới nghe nói không tham thấy như dễ, vì thấy rằng tôi đâu có ăn cướp
ăn trộm của ai, tôi giữ được. Nhưng đó chỉ là phần thô của tham tài, còn phần
tế thì chưa giữ được. Thế nên giới không tham, chúng ta chỉ dứt được một hai
điều, chớ chưa dứt sạch. Nếu dứt sạch là đã vào bậc Thánh. Người nào dứt được
phần tham thô, còn phần tham tế cũng được làm người trời rồi. Song muốn tu tiến
hơn nữa là phải bớt tham, bắt đầu từ một món cho đến năm món là chứng quả
Thánh.
9- Không sân giận
Sân nhuế là nóng giận, đối với cảnh vừa ý sanh lòng vui thích
đắm mê, đối với cảnh trái ý nghịch lòng sanh tâm nóng nảy tức giận. Sân thô thì
miệng la lối mắng chửi tay đánh chân đá. Tế hơn thì miệng không nói, tay chân
không hoạt động, nhưng sắc mặt đổi, trong lòng nóng nảy bực bội. Tế hơn nữa
lòng không bực bội mà không vui. Ðó là hiện tướng sân từ thô đến tế. Người tu
hết sân là khi nào bị mắng chửi, hay bị đối xử tệ bạc, mà vẫn thản nhiên lòng
không giận không buồn, lại khởi tâm thương cho người mê muội đang tạo tội lỗi.
Tâm trạng này chỉ có Phật và Bồ-tát mới thực hiện được. Vậy không sân giận tu
tới bao lâu mới hết? Tu đến khi nào người đời đối xử tệ bạc hay mắng chửi, lòng
không buồn giận mà vẫn tươi cười như đang uống nước cam lồ, thì chừng đó mới
xong. Muốn được như vậy, thì từ cái sân thô là miệng la, tay đánh, chân đá ...
phải hạn chế từ từ, không cho tay chân hoạt động mỗi khi nổi nóng, rồi tới
miệng không cho nói. Như vậy cấm từ tay, chân, miệng, rồi đến tâm không giận không
buồn. Ai đối xử tệ bạc hay mắng chửi, vẫn vui cười, tu như thế mới tiến bộ.
Không ai dứt một lần được mà phải dứt từ thô đến tế như đã nói.
10- Không tà kiến
Tà kiến là thấy lệch tin lầm. Sở dĩ thấy lệch tin lầm là do si
mê, thiếu trí tuệ mà ra. Nếu kể thì nhiều vô số, ở đây tôi chỉ nêu những việc
căn bản và những lỗi Phật tử thường vấp phải. Như trước tôi đã đề cập thường kiến,
tức là tin mình có một linh hồn sau khi chết còn hoài không mất. Và đoạn kiến
thì tin rằng thân này do tứ đại hợp thành, sau khi chết tứ đại rã tan không còn
gì hết. Ðó là hai kiến chấp rất nặng của ngoại đạo đưa đến những cuộc khẩu
chiến sôi nổi ở Ấn Ðộ thời đức Phật.
Ðây tôi không giải thích nữa, chỉ nói qua những tà kiến mà người
Phật tử Việt Nam thường vấp phải. Như có nhiều người đau không uống thuốc, đi cầu
Thánh mẫu, cầu cô cậu, cầu bà thủy, bà hỏa cho bùa phép uống, đeo để hết bệnh.
Hoặc có cây sứ, cây đa bị mối hay kiến đục thành những lằn chữ hay hình người,
thì cho đó là thần thánh hiện, rủ nhau đến gốc cây thắp hương vái lạy, nguyện
cầu thần thánh ban phước cho được bình an tai qua nạn khỏi. Hoặc trên không
trung có cụm mây hay đám khói trắng giống hình người, hình rồng thì cho là
Phật, thánh hiện, rủ nhau ra chiêm ngưỡng đảnh lễ ... Ðó là những hành động do
tà kiến mê tín.
Trong kinh thường nói Phật tùy duyên hóa độ chúng sanh. Nếu
chúng sanh là chư thiên thì Phật đản sanh ở cõi trời để hóa độ. Nếu chúng sanh
là loài người thì Phật đản sanh ở cõi người để hóa độ. Nếu chúng sanh là loài rồng
thì Phật giáng sanh ở cõi rồng để hóa độ ... Tóm lại, cần độ loài nào thì Phật
giáng sanh vào loài đó để hóa độ. Ngài hành hạnh Bồ-tát sanh hoạt một cách bình
thường, chớ không biến hiện những hình dáng kỳ lạ, làm những việc huyền bí để
mê hoặc chúng sanh. Chúng sanh vốn đã si mê thì phải làm cho chúng sanh tỉnh
sáng, dứt mê lầm, hết khổ đau, mới là từ bi. Nếu mê hoặc chúng sanh làm cho
chúng sanh càng mê mờ thêm thì đâu phải hạnh từ bi của bậc hiền thánh.
Lại nữa, có nhiều người xin xăm, coi tay, bói quẻ ... đó là
những nhận định sai lầm tầm thường mà đa số không bỏ được. Chúng ta đã biết
Phật dạy do ba nghiệp lành mà sanh cõi người, cõi trời, cũng do ba nghiệp lành
mà chứng quả Thanh văn, Bích chi, Bồ-tát, Phật. Ngược lại do ba nghiệp dữ mà
rơi vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Nên nhớ không có quả báo tốt hay xấu nào
do bói quẻ coi tay tạo ra. Biết sai lầm mà bỏ không được cũng hóa ra tà kiến mê
tín. Nghe kinh thì cũng hiểu mà sợ thì vẫn sợ, nên vẫn khổ. Như nghe thầy bói
nói năm này tháng này xấu, trong lòng cứ bồn chồn lo lắng, cúng kiếng vái lạy
đủ thứ. Ðó là chưa có chánh kiến bất động như Phật dạy ở trước.
Nếu người có
chánh kiến bất động thì dù có gặp việc bức bách đến đâu, cũng vẫn bình thản
không lo sợ. Chẳng hạn có ai nói ngày mai ông chết, chúng ta vẫn thản nhiên vì đã
biết đời người ai cũng phải chết, hết duyên là thân phải rã, không rã sớm thì
rã muộn, cầu cúng van vái rồi cũng phải chết nên không cầu. Nhược bằng ngày mai
không chết thì thôi, không lo buồn sợ sệt.
Nếu nghe nói mình sắp chết lo sợ,
chạy đi coi thầy, cầu cúng van vái xin cho khỏi chết, là tà kiến. Ở trước, Phật
dạy Long vương: "Ông phải nhớ chánh kiến bất động". Người có chánh
kiến tức là có lòng tin sâu chánh pháp thì không động. Chúng ta vì lòng tin đối
với chánh pháp chưa vững, nên hay bị lay động. Người hay động là thiếu niềm tin
đối với pháp Phật thì sự tu hành của mình làm sao được lợi ích? Thế nên người
Phật tử phải có "Chánh kiến bất động".
Trong kinh A-hàm có ghi: Trưởng giả Úc-già khi gặp Phật, được
Phật dùng nhiều phương tiện giáo hóa khai ngộ. Sau khi ông nghe được lý Tứ đế,
dứt trừ mọi nghi hoặc, đối với Phật, đối với pháp ông đặt trọn vẹn niềm tin, không
lay chuyển. Không tìm cầu một tôn sư nào khác, cũng không kiếm tìm một pháp môn
nào khác. Lòng tin Phật pháp của ông rất vững không động lay. Sau khi Phật
Niết-bàn ông phát nguyện bố thí lớn, trong lúc ông bố thí thì tàu buôn của ông
bị đắm. Chư Tỳ-kheo ngại sản nghiệp của ông bị tiêu tán hết, nên cử tôn giả
A-nan đến khuyên ông nên dừng cuộc bố thí. Trưởng giả Úc-già trả lời, ông hành
xả như thế dù cho của cải ông có khô cạn hết, cũng chỉ để làm tròn bổn nguyện
của ông, giống y như bổn nguyện của vị Chuyển Luân Thánh Vương.
Quí Phật tử có vị nào đặt niềm tin sâu vững đối với pháp Phật
như trưởng giả Úc-già không? Tin sâu như vậy mới là chánh kiến bất động. Ngày
nay có nhiều Phật tử ham sống sợ chết, ham giàu sợ nghèo. Nếu có ai bày vẽ nên
đến đền này miếu nọ, để cầu thần linh hộ mệnh được sống lâu, cầu thần linh ban
phúc được giàu sang, thì họ không ngần ngại đến để cầu khẩn van vái. Vì vậy đạo
Phật bị chê là mê tín. Pháp Phật dạy không có mê tín như thế, chỉ vì người mang
danh Phật tử không có lòng tin bất động với chánh pháp, cứ chạy đến chỗ này van
vái, chạy đến chỗ kia van xin, nên đạo Phật bị mang tiếng không tốt. Nếu người
Phật tử chánh tín thì không bao giờ tin những sự việc xảy ra ngoài lý nhân quả.
Mọi hiện tượng xảy ra đều do nhân quả, nhân tốt thì quả tốt, nhân xấu thì quả xấu.
Nếu quả xấu thì can đảm chịu, nếu quả tốt thì vui vẻ nhận.
Ðến đây tôi nói ra ngoài kinh Thập Thiện một chút để quí vị hiểu
dễ tu. Trong luận Sáu Cửa Vào Ðộng Thiếu Thất, Tổ Bồ-đề-đạt-ma có dạy tu Báo Oán
Hạnh, tức là người tu phải thực hành hạnh trả thù. Quí vị nghe người tu mà trả
thù có ngạc nhiên không ? Quí vị hãy nghĩ kỹ xem trả thù bằng cách nào? Ngài
dạy khi gặp tai nạn đau khổ chúng ta phải nghĩ: Không phải tai nạn đau khổ ngẫu
nhiên có, mà do đời trước mình tạo nghiệp ác, nên hôm nay quả thành tựu. Mình
đã tạo nhân nay phải can đảm nhận quả, không than trời trách người. Khi hết quả
xấu rồi thì hết khổ. Như vậy là Báo Oán Hạnh. Nếu tai họa tới mà than trời
trách người, thì đâu có hết nợ, oán càng thêm oán.
Ví dụ trước kia ông Bát ăn ở mích lòng ông Thập. Sau ông Thập có quyền thế, ông trả thù làm cho gia đình ông Bát tan nát khổ đau. Như vậy là hai lần oán thù, lần thứ nhất ông Thập oán thù ông Bát, lần thứ hai ông Bát oán thù ông Thập và bây giờ ông Bát đang chờ cơ hội trả thù ông Thập. Xử với nhau như vậy có hết thù không ? -- Không. Thành ra trả thù mà trái lại gây thêm thù, oán thù chồng chất lên nhau không bao giờ hết. Tổ dạy "trả thù" là trả hết thù, không còn thù nữa, trả bằng cách quả đến thì can đảm chịu, không than không trách thì oán thù đau khổ không còn nữa.
Ðó là "trả thù" theo lý nhân quả. Người nào biết trả thù như thế thì oán thù nhất định sẽ hết. Không biết trả thù như vậy thì thù oán còn hoài, vì trả thù tức là gây thêm thù làm sao hết được? Tổ Ðạt-ma dạy "trả thù" mà không gây oán nên thù không còn. Quí vị xét người biết đạo lý tu hành, có ai muốn nghiệp nợ mình còn hoài không? Ai cũng muốn hết nợ nên phải trả, nhớ trả mà đừng vay nữa. Tai họa đến, lại tới miếu này đền nọ, để van vái cầu cúng thì bao giờ mới hết nợ? Làm như thế là không dám trả, không dám trả là không hết nợ.
Ví dụ trước kia ông Bát ăn ở mích lòng ông Thập. Sau ông Thập có quyền thế, ông trả thù làm cho gia đình ông Bát tan nát khổ đau. Như vậy là hai lần oán thù, lần thứ nhất ông Thập oán thù ông Bát, lần thứ hai ông Bát oán thù ông Thập và bây giờ ông Bát đang chờ cơ hội trả thù ông Thập. Xử với nhau như vậy có hết thù không ? -- Không. Thành ra trả thù mà trái lại gây thêm thù, oán thù chồng chất lên nhau không bao giờ hết. Tổ dạy "trả thù" là trả hết thù, không còn thù nữa, trả bằng cách quả đến thì can đảm chịu, không than không trách thì oán thù đau khổ không còn nữa.
Ðó là "trả thù" theo lý nhân quả. Người nào biết trả thù như thế thì oán thù nhất định sẽ hết. Không biết trả thù như vậy thì thù oán còn hoài, vì trả thù tức là gây thêm thù làm sao hết được? Tổ Ðạt-ma dạy "trả thù" mà không gây oán nên thù không còn. Quí vị xét người biết đạo lý tu hành, có ai muốn nghiệp nợ mình còn hoài không? Ai cũng muốn hết nợ nên phải trả, nhớ trả mà đừng vay nữa. Tai họa đến, lại tới miếu này đền nọ, để van vái cầu cúng thì bao giờ mới hết nợ? Làm như thế là không dám trả, không dám trả là không hết nợ.
Tóm lại, Phật dạy chúng ta phải có chánh kiến, khi đã có chánh
kiến rồi thì can đảm vui chịu mọi khổ đau xảy đến, không than không trách. Vì
biết quả khổ đến là do mình tạo nhân xấu ở đời trước. Nếu trốn tránh hoặc than
trách, hoặc vái lạy van xin cũng không hết tội, có khi lại thêm tội và tăng
thêm tà kiến nữa là khác. Thế nên Tổ Bồ-đề-đạt-ma dạy tu hạnh Báo Oán để dứt
thù dứt tội. Ðó là hạnh thứ nhất.
Ðến hạnh thứ hai là hạnh Tùy Duyên. Ngài dạy chúng ta sanh ra
đời được gặp những duyên tốt, làm ăn đúng thời, giàu có, nhiều tiền của, ăn
sướng mặc đẹp sang cả. Phải nghĩ rằng: Do nghiệp lành đời trước mà mình được
sanh chỗ tốt làm được việc tốt, nên mới được giàu sang sung sướng. Do duyên phước
đời trước để lại ngày nay được hưởng thì không nên hưởng hết, nếu hưởng hết thì
phải khổ, vì vậy phải tiếp tục gieo nhân lành luôn luôn không dừng. Ðó là
trường hợp thứ nhất. Ðến trường hợp thứ hai là phải nghĩ ngày nay mình được
giàu sang sung sướng là do duyên nghiệp lành đời trước nên không tự cao ngã
mạn, không khinh khi người, vì không phải tài trí của mình. Trong không ngã
mạn, ngoài lo làm điều tốt thì dễ tiến trên đường tu.
Tuy nhiên, cũng có người không thông lý nhân quả, làm ăn được
phát đạt thì cho là may mắn, làm ăn bị thất bại thì cho là rủi ro. Ðổ thừa may
rủi là tà kiến. Chớ không biết do nghiệp lành đời trước nên nay mình nghĩ gì đúng
nấy làm gì được nấy. Thế nên Phật nói do phước khiến cho con người hết khổ,
muốn gì được nấy. Nghiệp ác làm cho người khổ, việc xảy ra thường trái ý mình,
không được toại ý. Thế nên người có phước muốn gì được nấy, còn người vô phước
thì muốn mà không được. Người không hiểu lý nhân quả đổ thừa cho may rủi là
trốn trách nhiệm, tự cao ỷ tài khi làm được việc, oán trách khi thất bại. Thế
nên người Phật tử chân chánh phải có nhận định đúng với đạo lý, lúc nào cũng
biết không có việc gì ngẫu nhiên đến, mà do phước nghiệp đời trước, cho nên cố
gắng làm lành để vun bồi thêm phước đức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]