●❈❈❈● KÍNH CHÚC CÁC BẠN ĐỒNG TU THÂN TÂM THƯỜNG AN LẠC, TINH TẤN TU HÀNH, MAU ĐẾN BỜ GIẢI THOÁT ●❈❈❈●

30/12/2012

VẬN HÀNH CỦA NGŨ UẨN.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhiZFJYw8zIDziOsVtDKD9enBNRDE87uevoJE-AqBAyqCH0LK33csqoupyq60kc_GsOUutqb0vTn2ZEHJzUJBKrak4Eg3jviMEhqjEn8MUe3e_NPdVgQXxCxejL2wkkwXY9EjBncE_zsWM/s1600/41gif5.gif

Xin ông chỉ cho biết ngũ uẩn vận hành sinh diệt ra sao?
-  Hôm trước tôi có nói về tương quan giữa TỨ NIỆM XỨ và  BÁT NHÃ TÂM KINH trong bài “LÀM SAO TU”. Tôi không đề cập đến các từ “vận hành sinh diệt”, nhưng trong đó đã ngầm chỉ rồi. Hôm nay ông hỏi thì tôi xin nhắc lại vài điều đã nói, và nhân thể  nói rộng thêm để cùng nhau học hỏi.  
Ngũ uẩn gồm những tập hợp Sắc-Thọ-Tưởng-Hành-Thức.  Ngũ uẩn còn có tên khác là ngũ ấm nếu nói chúng là nguyên nhân che lấp chân tâm.  
Sắc chính là cái thân xác sanh, già, bệnh, chết, là cảnh vật chung quanh ta gồm âm thanh, ánh sáng, muôn hình, muôn vật và cả những gì ta chất chứa trong tàng thức, tức thức thứ 8, từ vô thủy tới nay mà ta gọi là pháp trần. Sắc có là do sáu căn (gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp).  Sắc thay đổi theo thời gian và không gian vì chúng do nhân duyên mà sinh, rồi lại do nhân duyên mà diệt. 
Thọ là những cảm xúc bên trong như mừng vui, oán hận, yêu ghét … hoặc không vui không buồn; chúng có do “Sắc” mà ra.  Thọ cũng vô thường, có đó rồi cũng mất đó.
Tưởng là liên tưởng, là đoán định, là tưởng nhớ qua những sự kiện quá khứ chứa trong tàng thức. “Tưởng” do “Thọ” mà có. 
Hành là âm thầm quyết định trong tâm hoặc thể hiện ra ngoài bằng hành động, lời nói.  Nó có do “Tưởng” mà ra.  
Riêng “Thức” nói chung là biết và phân biệt.  Năm thức đầu là nhãn thức nhận biết hình ảnh, nhĩ thức nhận biết âm thanh, tỉ thức nhận biết hương vị, thiệt thức nhận biết mùi vị và thân thức nhận biết do thân xúc chạm. Năm thức này chỉ có tính cách biết và phân biệt, chúng hoàn toàn vô tư và khách quan, nhiệm vụ của chúng là thông tin.  Năm thức này có là do năm căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt và thân) tiếp xúc với năm trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) mà có.  Thức thứ sáu là ý thức.  Thức này đa năng, gồm cả nhận biết, phân biệt, so sánh, lựa chọn, tính toán, suy luận và tưởng tượng theo các đối tượng nhận được từ năm thức đầu và/hoặc  pháp trần chứa trong tàng thức.  Để dễ hiểu và bớt rườm rà, “Thức’ chúng ta đề cập trong ngũ uẩn ở đây là  thức thứ 6 hay Ý thức.  
Để hiểu rõ cách vận hành của ngũ uẩn tôi xin đưa ra một ví dụ để ông hiểu.
*  Ban đêm chợt nghe tiếng kêu (âm thanh, nhĩ thức, nói chung thuộc về sắc) “cháy nhà, cháy  nhà” (ý thức phân biệt), tôi bỗng hoảng hốt (thọ) và liên tưởng tới cảnh nhà người bị cháy và nhà mình có thể bị vạ lây (tưởng). Tôi vội mở cửa ra ngoài xem sao (hành), tôi thấy một ngọn lửa (sắc, nhãn thức) đang bốc cao trên mái nhà ông Tám, người láng giềng (ý thức phân biệt).  Tôi chạy nhanh vào nhà gọi ngay cho Sở Cứu Hỏa để họ đến chữa lửa lập tức (hành và ý thức cùng làm việc).  Tôi thật vui mừng (thọ) khi ngọn lửa được dập tắt sau đó chừng 30 phút.  Tôi đến nhà ông Tám hỏi han và chia buồn cùng ông (hành).  Tôi lựa lời (ý thức phân biệt) an ủi để ông và gia đình không lo sợ, sau đó ra về vì đã hai giờ sáng (hành và ý thức cùng làm việc).
-  Xin ông cho thêm một ví dụ nữa.
*  Đây là ví dụ thứ hai cho ông.  Nghe xong về thiền (âm thanh, nhĩ thức, nói chung là thuộc về sắc), thấy hay quá (ý thức + thọ hợp lại), tôi bèn quyết định tối nay sẽ thực tập (hành).  Trước hết tôi chọn một nơi thật yên tĩnh để việc hành thiền có kết quả (ý thức phân biệt).  Sau đó tôi ôn lại tất cả những gì mình đã được nghe giảng ban sáng (tưởng) rồi bắt đầu vào việc thực tập (hành).  Vì là người sơ cơ (ý thức phân biệt) nên tôi quyết định dùng phương pháp đếm hơi thở từ 1 đến 10 (hành).  Tôi bực mình (thọ) vì nghe thì dễ mà sao khi thực hành thì lại không làm được.  Tôi nghĩ phương pháp này không phải là phương pháp tốt (tưởng) nên chuyển sang phương pháp khác là chỉ theo dõi hơi thở mà thôi (thức và hành hợp lại).  Tôi vui mừng (thọ) vì phương pháp này tương đối hợp với tôi hơn.
Chúng ta cần phải hiểu thêm ở đây là Sắc-Thọ-Tưởng-Hành -Thức được phân tích và diễn giải theo thứ tự vừa rồi chẳng qua chỉ để cho dễ hiểu mà thôi, chứ thực sự thì chúng xảy ra rất nhanh, đôi khi như cùng một lúc, và ta tưởng là chỉ có một hay vài uẩn xuất hiện, nhưng  kỳ thực thì tất cả mọi  thành phần đều tương tác, tương giao thật vô cùng mật thiết.
-   Tôi không hiểu, xin ông cho một ví dụ.
*  Ông A thấy đứa con trai tám tuổi của mình bị một đứa trẻ lớn khác đánh túi bụi (sắc, nhãn thức).  Lập tức ông lao mình xông vào và ra tay thẳng cánh tát vào mặt đứa lớn một cái như trời giáng (hành).  Như vậy tại thời điểm 1, ông A nhìn thấy cảnh tượng đứa lớn đánh con mình (sắc, nhãn thức); tại thời điểm 2,  ông xông vào đánh đứa lớn (hành), nhưng nếu phân tách kỹ chúng ta thấy không phải chỉ có hai uẩn là “sắc” và “hành” ở đây mà còn có mặt của các uẩn khác nữa mà vì chúng xuất hiện hầu như đồng thời nên ta không nhận ra mà thôi.
Đây tôi phân tách cụ thể hơn để ông rõ.   Ông A thấy (có sắc, hay nhãn thức góp mặt) đứa con trai tám tuổi của mình (ý thức phân biệt) bị một đứa trẻ lớn đánh túi bụi (ý thức lại phân biệt nữa).  Lập tức ông lao mình xông vào và ra tay thẳng cánh tát vào mặt đứa lớn một cái như trời giáng [ẩn chứa sự bừng giận bên ngoài (thọ)  và có thể lẫn sợ hãi bên trong (cũng thọ)] vì liên tưởng (tưởng) con mình có thể bị thương nặng hay chết nếu tiếp tục bị đánh,  để rồi có quyết định xông nhanh vào là “hành” và ra tay thẳng cánh tát vào mặt đứa lớn một cái như trời giáng “cũng là hành”, đó là biện pháp can thiệp trừng trị hay là “ý thức lựa chọn”.
Nếu phân tích chi li thêm thì còn biết bao nhiêu nguyên nhân khác nữa đi tới cái giận, cái sợ, và hành động can thiệp của ông A.  Có thể nói chúng trùng trùng duyên hợp đồng khởi lên từ quá khứ tới hiện tại và tới cả tương lai nữa mà ta khó lòng nhận ra.
-   Nhưng cũng có trường hợp như trên mà ta lại thấy một người cha khác ung dung xử trí khác hẳn, như không vội can thiệp ngay và không có hành động mạnh là tại sao?  Như vậy không có “thọ” hay “tưởng” sao?
-   Dù có hành động khác đi chăng nữa thì sắc-thọ-tưởng-hành-thức cũng xuất hiện trong đó.  Nếu người cha thấy con bị đánh (sắc, nhãn thức) mà chỉ đứng yên nhìn (hành) thì trong đó cũng có “thọ và tưởng” rồi.  Có thể ông không xúc động mạnh (thọ) vì ông liên tưởng (tưởng)  tới tính tình hung hăng, hay gây chuyện của con mình nên chỉ đứng nhìn (hành), và hy vọng con có một bài học trong trường hợp này mà thôi (ý thức phân biệt) -  Ông chỉ can thiệp nhẹ nhàng khi thấy cần can thiệp (thức và hành).
-  Như vậy Ý thức phân biệt đã tác động vào Thọ-Tưởng-Hành và ngược lại?
-   Đúng vậy, ta cần để ý là Ý thức tác động mạnh vào Thọ-Tưởng-Hành và ngược lại Thọ-Tưởng-Hành cũng tác động mạnh vào “Ý thức”.  Ý thức có thể giúp ta thành Thánh cũng như có thể đưa ta vào địa ngục. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức tác động và ảnh hưởng dây chuyền lẫn nhau theo cả hai dòng thuận nghịch.  Bình thường chúng theo trình tự như trên, nhưng không nhất thiết chúng phải theo một thứ tự nhất định nào cả, mà có thể biến hóa theo từng trường hợp nếu ta rơi vào tình trạng điên loạn, khuyết tật, thần kinh suy yếu hay tê liệt, cùng những kinh nghiệm ta có hay chưa có, có nhiều hay có ít trong tàng thức.  
Ý Thức thuộc lý trí và hoạt động do thông tin khách quan của năm thức đầu hay chủ quan của thức thứ bảy là Ý căn tác động.
Thọ-Tưởng-Hành chính là cái tôi hay cái ngã, và chúng thuộc thức thứ 7, còn gọi là Ý căn hay Mạt Na Thức trong Duy thức học.  Mạt na thức thuộc thể tình cảm và là hình ảnh con trâu đen, còn nhiều thú tính trong Thập Mục Ngưu Đồ (10 bức tranh chăn trâu) luôn băng mình vào ruộng của người mà ăn lúa (tham, sân, si).  Dĩ nhiên Thọ-Tưởng-Hành phải do “Sắc” bên ngoài, và “Pháp trần” bên trong cùng “Ý thức” tác động mà có.
Muốn thuần phục con trâu đen hay cái ngã, ta phải có một mục đồng chăn dắt, không cho nó xâm phạm vào ruộng lúa của người.  Nếu mục đồng tỉnh táo, biết canh chừng con trâu thì lâu ngày con trâu sẽ thuần thục dần không còn xâm phạm vào ruộng lúa của người  và cuối cùng thì mục đồng cũng không còn phải chăn dắt gì nữa.  Đến đây thì trâu đen đã thành trâu trắng (không còn tham sân si) và mục đồng yên tâm ngồi nghỉ thổi sáo vi vu .  Mục đồng tượng trưng cho Ý thức hay lý trí, và trong trường hợp này nó thật có công đầu (công vi thủ).  Tuy nhiên nếu con trâu đen quá mạnh mà mục đồng thì lại yếu hèn, ngu dốt, trâu muốn đi đâu cũng cứ mặc, đã không cản ngăn mà lại còn giúp trâu phá hoại mùa màng của người thêm thì mục đồng, trong trường hợp này,  tội cũng đứng đầu (tội vi khôi).
-  Biết được sự vận hành của ngũ uẩn như vậy thì có ích gì?
-  Biết ngũ uẩn Sắc-Thọ-Tưởng-Hành-Thức, tự mỗi uẩn gồm nhiều kết hợp mà thành, rồi chúng lại tự kết hợp với nhau theo một trình tự mà ta đã biết ở trên thì biết ngay rằng  chúng do duyên hợp mà thành, rồi cũng do duyên tan mà diệt.  Vậy chúng chỉ là ảo ảnh, thoáng hợp thoáng tan mà ta nhận lầm là “cái ta” chân thật.  Chúng chỉ là vọng tâm hay giả ngã mà thôi.  Biết ngũ uẩn đều không thật có (ngũ uẩn giai không), không phải là “cái ta chân thật” thì có gì mà chấp.  Buông chúng, thì ta sẽ thoát khỏi mọi khổ ách, tức giải thoát (độ nhất thiết khổ ách).  Đây là căn cơ của các bậc thượng căn.
-  Biết mà không buông được thì sao?  Có phương pháp gì để buông không?
-  Biết mà không buông được thì từ ngũ uẩn này lại phát sinh một ngũ uẩn khác, chu kỳ kế tiếp nối nối, kết kết không ngừng, đã nghiệp lại càng thêm nghiệp, đã vô minh lại càng vô minh, dòng sinh tử cứ thế mà trôi lăn, không bao giờ ngừng.  
Riêng phương pháp để buông thì có nhiều, tuy nhiên đang nói về ngũ uẩn thì chúng ta hãy tập trung vào đề tài này và vào phương cách nào dễ dàng, hiệu nghiệm và an toàn nhất mà phần đông đều nhận thấy.  
Ngũ uẩn, căn bản thuộc hai thức: Mạt na thức và ý thức.  Mạt na gồm Thọ-Tưởng-Hành thuộc bản năng tình cảm, tượng trưng bởi con trâu đen; còn Ý thức tượng trưng là mục tử chăn dắt trâu đen.  Muốn dừng sinh tử thì hãy lấy Ý thức để dẫn dắt Mạt na thức, để buông bỏ Thọ-Tưởng-Hành không thật.  Muốn buông bỏ thì cần áp dụng pháp tu Chỉ Quán.  “Chỉ” là dừng lại vọng tưởng, phải áp dụng phương pháp Thiền Tứ Niệm Xứ, hoặc Niệm Phật, hoặc Trì Chú, hoặc cả hai hay ba v.v… “Quán” là học hỏi , quan sát, suy nghiệm để thấy rõ ngũ uẩn vốn thật là không, chứ không phải tin suông, hầu củng cố niềm tin mà buông bỏ mạnh và nhanh hơn.  Chỉ và Quán luôn luôn hỗ tương nhau để đưa ta tới đích giải thoát.  
-  Như vậy ngũ uẩn chỉ huyễn có, ta cần buông ngay thì chân tâm hiển lộ.  Không buông được ngay thì dùng phương pháp “Chăn Trâu” hay “Chỉ Quán”?
-  Đúng vậy!  
-  Thế sáu căn không nhiễm sáu trần là sao?
-  Đó chính là bên ngoài mắt thấy sắc,tai nghe thanh, mũi ngửi mùi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm mà tâm không bị dính mắc; bên trong dù pháp trần có hiện ra tâm cũng chẳng lay động.  Đây là Mạt Na và Ý thức không còn bị sáu trần lôi cuốn nữa mà thôi.  Hãy buông tâm phân biệt.
-  Tôi đã đọc nhiều sách cũng như được nghe giảng về những điều ông đề cập ở trên.  Tôi thấy có nhiều cái ông nói khác với những gì tôi đã đọc, đã nghe.  Vậy ông giải thích về điều này như thế nào?
-  Diệu pháp của chư Phật có vô lượng nghĩa.  Tùy theo trình độ mà ta hiểu nông hay sâu, sai hay đúng.  Tôi chỉ chia sẻ những điều tôi hiểu và tin.  Ông hãy tham khảo thêm cùng các thiện tri thức, hãy đọc và nghe lại những bài giảng, sau đó hãy suy nghĩ thật kỹ xem nó có lý không, nó có liên hệ gì với nhau, nó có sâu rộng không?  Đúng hay sai, tin hay không chính ông phải quán chiếu và quyết định.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]