Đức Phật
buông bỏ hết dục lạc thế gian, vào rừng và học đạo với những bậc thầy lỗi lạc
nhất vào thời đó. Nhưng sự học này là tri thức, tiếp thu bằng lý trí và không
mang lại cho ngài lòng thâm tín về sự hiện hữu của thực tại. Do đó ngài không
hài mãn về những cuộc thảo luận triết lý đó.
Ngài lui vào rừng tu khổ hạnh. Ngài nghĩ rằng khi chúng ta tham
đắm vào thân, tâm trí sẽ quên mất mục đích. Và một tâm thức bận rộn và mê mờ
không thể đạt đến mục tiêu. Vì thế ngài tiết giảm một cách tối đa những nhu cầu
của thân. Ngủ thật ít, ăn thật ít và tiếp tục ngồi bất động trong những thời
tọa thiền miên mật. Nhưng ngài đã không mãn nguyện. Vì nếu những nhu cầu của
thân giảm thiểu từ từ thì sức khoẻ cũng theo đó giảm sút. Ngài không đứng dậy
nổi khỏi chỗ ngồi vì đã quá kiệt sức. Chính trong sự sống mà con người đạt đến
giác ngộ viên mãn.
Do đó sự sống phải được bảo toàn đàng hoàng và điều này không
thể thực hiện được nếu ta giảm thiểu những nhu cầu sống còn. Vì thế ngài ăn
uống trở lại. Nhưng lòng khao khát đạt đạo vẫn duy trì. Ngài chưa biết đó là
cái gì. Chỉ biết đó là một nỗi khao khát nội tâm. Sự học tri thức tỏ ra chưa
đủ, cả đến sự ép xác cũng chưa đủ. Nhưng lòng khao khát vẫn còn đó. Ngài cảm
thấy lo âu nhiều vì sự học tri thức cũng như khổ hạnh đã không thỏa mãn được
nỗi khao khát đó. Ngài không biết phải làm sao. Ngài không còn biết phải tu trì
cách nào. Ngài thôi không học theo lối tri thức nữa. Lãnh vực của trò chơi chủ
thể và khách thể, sự phân hai này không thể nào đưa đến sự an tâm.
Nếu chúng ta cố trở thành hoàn hảo về mặt đạo đức, ta sẽ đặt một
bên là con người muốn có đạo đức toàn bích và bên kia là sự toàn bích. Như thế
sự toàn bích sẽ không bao giờ đạt được. Vì khi chúng ta đạt đến một trình độ
đạo đức toàn bích nào đó, từ trình độ này sẽ dẫn đến một trình độ cao hơn, toàn
bích hơn nữa. Chúng ta sẽ không bao giờ toàn bích cả. Sẽ không bao giờ đạt được
lý tưởng khi nào còn phân chia giữa người đi tìm sự toàn bích và chính sự toàn
bích. Sự phân chia thực tại ra hai cái đối lập, chủ thể và khách thể, người
nghĩ về một chuyện và chính chuyện đó, người đặt câu hỏi và chính câu hỏi … Sự
phân chia đó, khi nào còn tồn tại, sẽ ngăn chặn mọi khả năng giác ngộ.
Lẽ dĩ nhiên, mọi điều trên chỉ là lý luận. Đức Phật thì không lý
luận. Ngài chỉ cảm nhận một sự thôi thức nội tâm mà chưa rõ thực chất là gì.
Ngài không còn hy vọng nữa. “Nơi mà không còn hy vọng là cơ may của chúa”.
Người thiên chúa giáo nói như thế. Người thiên chúa giáo phân chia giữa chúa và
con người. Do đó họ nói đến sự mất hết hy vọng là cơ may của chúa. Nhưng theo
quan điểm của Đông phương trên sự vật, chúng ta không suy xét đến hiện tượng.
Đức Phật không phí thì giờ trong những biện luận như thế. Ngài
chỉ có khao khát và lòng khao khát này đã không được thỏa mãn chút nào. Khi
trạng thái này xảy ra, ta ra khỏi ý thức thường tình và tính tương đối. Đức
Phật chú tâm vào nỗi khao khát thúc bách này đến nỗi tự quên mình trong sự tham
cứu. Sự tham cứu không còn cách nào tách rời khỏi ngài nữa. Ngài không còn cảm
thấy khao khát nữa. Do đó ngài hiệp nhất với nỗi khao khát. Điều mà ngài tư duy
lại chính là ngài và không còn là ý tưởng của ngài nữa.
Dĩ nhiên là ngài không nói ra mọi sự như tôi vừa nói. Chính tôi
bình và giảng như trên. Khi trạng thái tâm thức này xuất hiện, tư tưởng đi đến
sự bình đẳng, sự bình ổn, hay đúng hơn là một sự đồng nhất bản tính. Chữ bình
đẳng ngụ ý đến tính đa dạng và tính hài hòa của vạn vật, nhưng trong trường hợp
của đức Phật, không nên hiểu bình đẳng theo nghĩa đó. Bình đẳng là đồng nhất
bản tính. Đồng nhất cũng không đúng nữa nếu ta muốn nói vật này đồng nhất với
vật khác.
Đối với Đức Phật, không có sự phân biệt giữa người tham cứu và
đối tượng được tham cứu. Ngài hoà nhập vào bản tính tuyệt đối (Dùng thuật ngữ
tư tưởng bình đẳng, tâm tịch tĩnh toàn mãn, hoặc tâm Bồ đề là để lý giải về tâm
lý). hưng cần phải có một đột biến nào đó, tức là ngộ (satori) để thực hiện tâm
thái trên. Do đó dù tâm thái đồng bản tính nằm sẵn trong mỗi người chúng ta,
vẫn cần một sự thức tỉnh đột biến đặc biệt. Đó chính là thủy giác hoặc chứng
ngộ. Và khi đã xảy ra, chúng ta nhận biết là chúng ta đang ở trong trạng thái
giác ngộ, hoặc là bản giác.
Vì thế khi đức Phật giác ngộ, ngài bảo lạ thay ai cũng có bản
tánh của Như Lai. Mọi vật, không phải chỉ là loài hữu tình mà ngay cả đất đá vô
tình, không chừa một ai … tất cả đều là Phật. Nhưng chúng sinh không tự nhận
biết, phải cần đến thủy giác mới có thể nhận biết hiện trạng đó.
Một tăng hỏi thiền sư :
- Tôi có phật tánh không?
Sư đáp :
- Không
Tăng hỏi tiếp :
- Tôi nghe nói mọi vật đều có Phật tánh. Tại sao tôi lại không có.
Sư nhắc lại :
- Sâu bọ muôn thú cõ cây đất đá … tất cả đều có Phật tánh trừ ông.
Vị môn đệ thắc mắc :
- Tại sao tôi lại không
Sư trả lời :
- Vì ông khởi tâm hỏi
Câu hỏi chứng tỏ vị tăng không nhận biết mình đang có Phật tánh.
Sự nhận biết tỉnh ngộ này là đột biến quan trọng nhất có thể xảy đến. Và chỉ
xảy đến cho loài người. Như thế, chúng ta nói mọi vật, kể cả vật chất đều có sẵn
Phật tánh, nhưng phải là con người mới hội được điều này.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]