●❈❈❈● KÍNH CHÚC CÁC BẠN ĐỒNG TU THÂN TÂM THƯỜNG AN LẠC, TINH TẤN TU HÀNH, MAU ĐẾN BỜ GIẢI THOÁT ●❈❈❈●

05/09/2013

TÂM VÀ VẬT.

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjls3QsI4preV_rpq8N5ZLYbyS1aTnK4KWaC543vrxY9rcTaIFY8xhxuE3n0XeImYcY21hAizgS4GGAZXL2tMW4qw7ZogDV_NQLZHGY-vci_UztJ0dWSh6rvh6HF0C1hbHiimg5oxYChVc/s1600-r/qd-phatthichca.jpg
Đức Phật nói rất nhiều vấn đề, Khoa học cũng đã chứng minh được nhiều vấn đề mà đức Phật đã nói cách nay trên 2550 năm; trong phạm vi giới hạn, bài này người viết chỉ đưa ra hai vấn đề đó là: 1. Tam tế tướng, 2. Tâm và vật.

TAM TẾ TƯỚNG: (Ba thể nhỏ nhiệm)
ĐỨC PHẬT DẠY:
     Cấu tạo con người và vạn vật đều do Tam tế tướng của A Lại Đa Thức mà thành, Tam tế tướng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng; tuy ba nhưng chỉ là một, một mà là ba; vật chất và tinh thần đều là một thể.

Thức là gì? Thức là sự nhận biết phân biệt, Thức vô hình không thấy được, Theo Duy Thức Học, con người có 8 thức như sau: 
1- Nhãn thức:
Là thấy biết hình sắc do nhãn căn (mắt) tiếp xúc với sắc trần (cảnh vật).
2- Nhĩ thức:
Là nghe biết khi nhĩ căn (tai) đón nhận thanh trần (âm thanh).
3- Tỵ thức:
Là biết mùi khi tỵ căn (mũi) đón nhận hương trần (mùi).
4- Thiệt thức:
Là biết vị khi thiệt căn (lưỡi) tiếp xúc vị trần (thức ăn thức uống).
5- Thân thức:
Là biết cảm giác do thân căn (thân thể tay chân) tiếp xúc trần (vạn vật). Năm thức này có nhiệm vụ ghi nhận khi năm căn tiếp xúc với năm trần.
6- Ý thức:
Là thức thứ sáu có nhiệm vụ tiếp xúc với pháp trần, pháp trần là tất cả những gì mà năm thức trên ghi nhận được, ý thức duyên với năm thức trên để nhận diện, phán đoán, phân biệt cho rõ ràng.
7- Mạt Na thức:
“tự ý thức”, thức thứ bảy tự ý thức về chính mình, còn gọi là “Ý”, tự ô nhiễm cho rằng mình có một cái “ta”; Mạt Na đưa tin tức về cảm giác chủng tử từ sáu thức trước cho A Lại Đa (Thức thứ tám) gìn giữ tất cả các sự kiện, và chấp làm thật ngã thật pháp. Tuy nhiên, nó luôn luôn thay đổi, nó là căn bản phiền não gồm: Ngu si, tà kiến, kiêu mạn, và ái dục. Mạt Na còn là tác giả của “căn cảnh duyên, tác ý duyên, và chủng tử duyên”; nó có tánh tướng lo nghĩ và làm chỗ nương tựa cho sáu thức trước về ô uế hoặc trong sạch. Mạt Na phân biệt chủ thể khách thể, tạo nên ý thức “nhị nguyên” (Cho rằng bản thể vũ trụ do hai bản thể làm thành, hoặc theo hai cái nguyên đề mà suy diễn ra cái khác như sáng tối, phải trái, đẹp xấu, yêu ghét v.v…); Mạt Na chấp ngã, nhân, chúng sanh, chấp đủ thứ điên đảo. Năm giác quan cùng ý thức báo cho Mạt Na tin tức từ bên ngoài không hề đánh giá tốt xấu, nhưng chính Mạt Na, thức thứ bảy này là kẻ đánh giá phải trái, hay dở, yêu ghét v.v… và ra lệnh cho sáu thức kia phản ứng hành động; đồng thời Mạt Na đưa tất cả các cảm giác (chủng tử) vào A Lại Đa thức là thức thứ tám.
8- A Lại Đa Thức:
Các cảm giác của tất cả các hoạt động của Năm Căn và Ý thức được Mạt Na đưa vào “A Lại Đa”, là Thức thứ tám, còn gọi là “Tàng thức”. A Lại Đa có nhiệm vụ gìn giữ tất cả các tin tức ấy, gọi là “chấp trì sinh mệnh chủng tử” của các pháp, nó luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận tin tức do Mạt Na chuyển đến, không bao giờ đầy, ví như chiếc bình không đáy, bao nhiêu chứa cũng hết và không bao giờ mất. Cả đời người sóng gió lên bổng xuống chìm, trải qua biết bao nhiêu sự việc, trong A Lại Đa có đầy đủ, ví như cái máy “Vi tính” chứa đủ thứ của cuộc đời.
 Tóm lại:
A Lại Đa Thức là thức thứ tám của chúng ta, nó chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống chúng ta và là nguồn gốc của tất cả hiện tượng gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng.
     So sánh, chúng ta thấy có sự trùng hợp giữa lời đức Phật dạy và Khoa học, đó là:
- Phật nói Nghiệp tướng, nhà Khoa học gọi là Năng lượng,
- Phật nói Cảnh giới tướng, nhà Khoa học gọi là Vật chất,
- Phật nói Chuyển tướng, nhà Khoa học gọi là Tin tức.
     Như vậy, chúng ta không còn nghi ngờ những lời Đức Phật đã nói, vì đã được các nhà Khoa học có cùng quan điểm như thế; tuy nhiên điều mà Đức Phật nhấn mạnh, đó là “Vật chất và tinh thần đều là một thể”, nghĩa là trong vật chất có năng lượng, trong năng lượng có vật chất và có cả tin tức nữa; tức là một mà là ba, ba mà là một, điều này nhà Khoa học vẫn chưa tìm ra.

TÂM VÀ VẬT CHẤT (Cảnh vật)   
    
“Tướng do Tâm sinh,
Cảnh tùy Tâm chuyển”
ĐỨC PHẬT DẠY:
     Trong Kinh đức Phật dạy: “Tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển”, như Kinh Hoa Nghiêm nói: "NHẤT THIẾT DUY TÂM TẠO"; thế nào là tướng do tâm sinh, cảnh tùy tâm chuyển?
- Tướng do tâm sinh:
     Khi con người chết đi, thần thức mang theo nghiệp thức đã tạo trong suốt đời để được sinh vào một trong 6 cõi: Trời, Người, Thần, Ngạ Quỷ, Súc sanh, Địa ngục. Tùy nghiệp thức mà có hình dáng của cõi được sinh vào như thế, nếu tái sinh cõi Người thì tùy nghiệp mà được thân hình toàn vẹn đẹp đẽ hay xấu xa hay khuyết tật v.v...
     Tướng là tướng mạo hình dạng mặt mũi thân thể con người, tướng do tâm sinh là hình dạng mặt mũi của chúng ta do tâm chúng ta mà sinh ra như thế. Khi mới sinh ra thì hình dạng do nghiệp thức tạo ra, khi lớn lên mặt mũi, thân hình mỗi ngày mỗi thay đổi khác, tùy theo tâm niệm của mỗi người trong suốt hành trình của cuộc đời.
     Tóm lại tướng mạo của con người là hiện tượng vật chất, tướng mạo đẹp xấu cùng ý niệm của con người có liên quan. Nói rõ hơn thì hành vi ý niệm tốt sẽ có tướng mạo đẹp, chẳng những tướng mạo đẹp mà còn khoẻ mạnh nữa.
- Cảnh tùy tâm chuyển:
     Cảnh là cảnh vật chung quanh chúng ta, như đất đai núi rừng sông biển đại địa và tất cả những thứ vật chất nhỏ bé khác. Hoàn cảnh vật chất ấy theo ý niệm của con người mà chuyển biến.
     Hiện nay trên thế giới xã hội động loạn, bên trong có nguyên tố con người, còn những tai họa thiên nhiên đối với mọi người tưởng rằng không có tương quan, sự thực không phải vậy. Đức Phật đã dạy “Cảnh tùy tâm chuyển”, tâm niệm của chúng ta và những tai họa thiên tai coi như tự nhiên ấy có tương quan mật thiết với nhau. Nếu tất cả con người đều có niệm thiện thì những tai biến thiên nhiên như bão lụt, động đất, sóng thần, núi lửa phụt lên sẽ không xảy ra.
     Có thể tin được hai điều đức Phật dạy không?
     Trong tạp A Hàm quyển 2 trang 302 khi Tôn Giả Mục Kiền Liên thưa với Phật rằng Tôn Giả nhìn thấy chúng sinh lớn như cái nhà lầu trên hư không, Đức Phật xác nhận là có, nhưng Phật đã không nói ra vì sợ nói ra, người không tin, và Phật còn nói “Những người không tin lời Ta nói là ngu si, mãi mãi chịu khổ”. Phật vì thương xót chúng sinh nên mới nói ra, mà không chịu tin thì nhất định phải chịu khổ, vì không tin nên không làm theo lời dạy của Ngài, nên phải chịu khổ là lẽ dĩ nhiên.

     Muốn sống lâu trong khỏe mạnh, chúng ta phải nghĩ lành tránh nghĩ ác, muốn nghĩ lành tránh nghĩ ác, chúng ta phải biết phân biệt giữa thiện và ác; nói đến điều thiện và điều ác một cách tổng quát thì ai cũng biết, nhưng đi vào chi tiết và cách đối xử hàng ngày nhiều người đã không phân biệt được đâu là thiện, đâu là ác. Nhiều người đã lầm lẫn giữa thiện và ác, họ đã cho việc ác là thiện, việc thiện là ác, vì không phân biệt được giữa thiện và ác một cách rõ ràng, nên họ đã hành động điên đảo, tạo khổ đau cho mình và cho người.
     Đức Phật dạy bốn nguyên tắc căn bản để chúng ta nhận định phân biệt được sự khác biệt giữa điều tốt việc thiện, với điều xấu việc ác như sau:
1- Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có hại cho người, có hại cho cả hai, đây là điều xấu, việc ác.
2- Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có hại cho người, đây là điều xấu, việc ác.
3- Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có hại cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.
4- Nếu ý nghĩ lời nói việc làm của mình có lợi cho mình, có lợi cho người, đây là điều tốt, việc thiện.

    Từ bốn nguyên tắc này, chúng ta cố gắng suy gẫm, sẽ phân biệt được đâu là thiện đâu là ác; như vậy chúng ta không còn nhầm lẫn giữa thiện và ác, theo đó chúng ta hành động một cách quang minh chính đại, và nó sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của chúng ta. Chúng ta phải thực hành liền: ngay sau khi đọc bài này, chứ không phải đợi tới lúc bệnh hoạn xảy ra rồi mới nghĩ tới điều làm lành thì đã bỏ qua mất cơ hội tốt cho mình mất rồi.
     
     Trong Kinh Lăng nghiêm Phật dạy:
1- Tham lam vô bờ bến: Mưa như đổ nước xuống không ngừng gây lũ lụt là do cảm chiêu của lòng tham lam quá nhiều của con người.
2- Sân hận căm thù: Hỏa tai, núi lửa nổ tung, sức nóng của trái đất tăng lên là do cảm chiêu của lòng sân hận căm thù của con người.
3- Ngu si tà kiến: Lốc xoáy, bão tố thổi đổ cây, tan nát nhà cửa do cảm chiêu của ngu si tà kiến.
4- Kiêu căng ngã mạn: Loạn động bất an, động đất sóng thần là do chiêu cảm của tính kiêu căng lòng ngã mạn của mỗi con người hợp lại mà thành.
     Con người sống trên trái đất này có qúa nhiều tham sân si mạn đến mức không thể khống chế nổi, cho nên tai nạn nào cũng đều xuất hiện cả; tình trạng này có hóa giải được không?
     Đối với Khoa học, cho đến nay: vẫn chưa đưa ra được giải pháp cụ thể nào cả.
     Đối với Phật giáo, chúng ta đã hiểu câu Kinh Phật nói “Cảnh tùy tâm chuyển” thì có thể hóa giải được, bằng cách như Phật dạy: “Tận diệt tham sân si mạn, siêng tu Giới Định Tuệ”
    Mọi người đều buông bỏ hết tham sân si mạn và thực hành Giới cấm, thiền Định, trau giồi trí Tuệ, thì thân thể đẹp đẽ khoẻ mạnh sống lâu, và các tai nạn thiên nhiên cũng giảm xuống.


 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]