Đức Phật giác ngộ tức đã đạt Niết bàn. Niết bàn được xem là mục
tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh
phiền não, sự giải thoát khỏi các kiết sử tùy miên, sự đoạn diệt hoàn toàn mọi
tham ái, sự dập tắt tham sân si, trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn
tướng Sinh-lão-bệnh-tử chi phối nữa. Niết bàn là cứu cánh của người tu Phật.
Ngược dòng thời gian cách đây trên 2500
năm, vào một ngày trăng tròn, có một bậc vĩ nhân xuất hiện ở đời. Ngài sinh vào
cung vua Tịnh Phạn năm 563 trước Tây Lịch. Đó là thái tử Sĩ Đạt Ta, sau thành Phật
hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Ngài là một con người sống trong nhung lụa cao sang,
hạnh phúc gia đình đầm ấm và có quyền uy tột đỉnh nhưng tự tại với mọi cám dỗ
của ngũ dục lục trần. Ngài đã tự nguyện từ bỏ tất cả, vượt thành xuất gia sống
cuộc đời Sa môn khổ hạnh nơi núi rừng, trải qua biết bao gian khổ, dãi nắng dầm
sương, vượt núi băng rừng, hết học với các bậc ẩn tu thì nỗ lực thực hành công
phu tu tập. Ngài đã tuyên thệ một lời sắt đá:“Ta ngồi nơi đây, nhất tâm thiền
định, dù thịt nát xương tan, nếu chưa chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh
giác, ta quyết không rời chỗ này.” Ngài trải qua 49 ngày đêm hành trì dưới cội
cây Tất Bát La bên bờ sông Ni Liên Thuyền, cuối cùng thành tựu Đạo quả Vô
thượng.
Ngày đản sinh và Đêm thành đạo là hai dấu
ấn quan trọng bậc nhất của cuộc đời Đức Phật và là hai ngày trọng đại nhất đối
với những người con Phật chúng ta. Sau đó, trong suốt 49 năm hoằng dương chánh
pháp, Ngài đã triển khai vi diệâu pháp để cứu độ chúng sinh, rồi mới đến giai
đoạn cuối cùng của cuộc đời là thể nhập Niết bàn tự tại.
Đức Phật chính là người tự chủ trong thị
hiện Đản sinh và thị hiện Niết bàn. Ngài nhập diệt ở rừng Ta la Song thọ. Năm
ấy Ngài 80 tuổi. Trước khi ra đi, Ngài đã để lại lời dạy tối hậu, sau này kết
tập thành Kinh Di Giáo, đó là lời dạy vô cùng quý báu cho tất cả hàng đệ tử
xuất gia. Sau khi Đức Phật Niết bàn thì hỏa thiêu, toàn thân xá lợi chia thành
tám phần cho tám nơi theo sự sắp đặt của Ngài. Ngài là bậc đản sinh vi diệu,
hoằng pháp vi diệu và nhập Niết bàn vi diệu. Ngài không phải là bề trên, không
phải là đấng thần linh có quyền ban phước giáng họa cho ai, mà Ngài là Vô
thượng Y vương trị tâm bệnh cho chúng sinh. Ngài là bậc Đạo sư, vị Thầy dẫn đường
chỉ dạy cho chúng sinh phương pháp thoát ly sinh tử và đưa chúng sinh qua khỏi
biển khổ trầm luân .
Đức Phật giác ngộ tức đã đạt Niết bàn.
Niết bàn được xem là mục tiêu cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã
gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thoát khỏi các kiết sử tùy miên, sự
đoạn diệt hoàn toàn mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si, trạng thái an tịnh
tuyệt đối không còn bị bốn tướng Sinh-lão-bệnh-tử chi phối nữa. Niết bàn là cứu
cánh của người tu Phật.
Nhà Phật định nghĩa: Mê là chúng sanh,
giác ngộ là Phật. Có thể ví như lưng bàn tay và lòng bàn tay . Mê và giác không
phải là hai thể, không phải hai đường, hai lối mà là cùng một thể, một lối. Chẳng
hạn, người khi nằm ngủ thấy cảnh mộng và người khi hết mộng vẫn là một người,
người khi mê là đang ở trong trường đại mộng và khi hết mộng tức là giác,
là tỉnh.
Hòa thượng Trúc Lâm đã nói trong bài thơ Mộng:
“Gá thân mộng,
Dạo cảnh mộng.
Mộng tan rồi,
Cười vỡ mộng.
Ghi lời mộng,
Nhắn khách mộng.
Biết được mộng,
Tỉnh cơn mộng.”
Chính vì vậy, mê lầm và giác ngộ không
phải là hai lối, nhưng với thức tâm phân biệt của chúng sanh cần rạch ròi mới
dễ hiểu. Hiểu được rồi, chúng ta sẽ thấy khi trở về con người chân thật của
mình không phải hai thể, hầu như không có khoảng cách. Không có khoảng cách ở
đây cũng như sóng và nước. Sóng đi tìm nước là một điều bi đát, sai lầm. Giống như
nhà Thiền nói: “Một người ở dưới sông, nước sông trong vắt nhưng người ấy lại
thấy khát nước”. Vì thế nhà Phật mới nói: “Người vác Phật đi cầu Phật.”
Nếu con người gột hết tham sân si, phiền
não, tật đố, vô minh thì sẽ thành Phật. Chúng sanh và các Bậc Giác ngộ chỉ là
một thể. Phật tánh vốn có sẵn nơi mỗi chúng ta, nhưng vì vô minh tạo nghiệp,
thọ thân nên cứ cho thân giả tạm là mình mà quên đi cái chân thật . Người nào
thường quên cái giả mới sống gần được cái thật, cho nên nhà Thiền mới hướng dẫn
chúng ta tu để nhận ra cái chân thật mà không lầm lẫn với cái giả tạm kia.
Đức Phật đã giác ngộ, đã hoằng pháp 49
năm, đã trao truyền lại cái mà Ngài đã ngộ, đã thấy, đã chứng nhập để chúng
sanh được nghe, được biết. Chính vì thế, Đức Phật là Bậc Giác ngộ. Ngài đã khai
sinh ra đạo Phật. Đạo Phật là đạo giác ngộ. Còn tứ chúng đệ tử Phật, hay thất
chúng đệ tử Phật đều là con của Phật, là con của Bậc Giác ngộ. Nếu chúng ta mê
thì không xứng đáng là đệ tử Phật, vì sự nghiệp của người tu là giác ngộ, nên
người đệ tử của Phật cần phải giác không được mê. Kinh điển A-hàm, Nikaya, Đại
Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa đã triển khai rất nhiều khía cạnh để mở ra cho
chúng ta một chân trời thênh thang của sự giác ngộ. Chúng ta cần giác ngộ để
sống đời an vui hạnh phúc, vì đã giác ngộ thì sẽ không còn sống trong bóng đêm
u tối. Nếu bóng đêm ngự trị thì chúng ta không có ánh sáng, nhưng dù cho chúng
ta sống trong bóng tối mà nhận được đạo lý thậm thâm thì sẽ mở mang được sự
giác ngộ và mê lầm sẽ lùi dần ra khỏi tâm trí chúng ta.
Chúng ta học được đạo lý giác ngộ thì phải
gia tâm chiêm nghiệm, phải khai phát ra ánh quang minh trong từng thời khắc khi
đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, tiếp xúc để sống vui và sống khỏe. Người
giác ngộ lúc nào cũng tỉnh cũng giác. Người tu không bao giờ tạo nghiệp ác,
nghiệp xấu vì họ luôn sống trong nội tâm an hòa, vui cho bản thân và vui cho mọi
người.
Kinh Kim Cang có nói đến “Lý một hợp tướng”. Đây là một bộ kinh
rất quan trọng của Phật giáo Đại Thừa mà Đức Phật đã triển khai. Vua Trần Thái
Tông đang khi đọc kinh liền đại ngộ. Đặc biệt Lục Tổ Huệ Năng khi nghe kinh đến
câu: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” liền thoát nhiên đại ngộ.
Thân của chúng
ta được kết hợp bởi sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc được tạo thành từ đất,
nước, gió, lửa. Nếu rời yếu tố vật chất và tinh thần thì không thể có thân tâm
chúng ta. Tướng trạng mà chúng ta nhìn thấy được do hòa hợp và hiện ra một
pháp, một hiện tượng mà Duy thức học gọi là: “Nhậm trì tự tánh, quỹ sanh vật giải.”
Mỗi pháp đều có khuôn khổ, nhìn vào tướng trạng đều có thể biết được pháp đó.
Nếu thông hội được pháp thì sẽ biết pháp được hòa hợp bởi nhân và duyên, bằng
những yếu tố khác nhau. Mỗi pháp tồn tại trong sự tương thuộc lẫn nhau, kết hợp
lẫn nhau để hình thành nên một hợp tướng. Hòa hợp thì có mặt, không còn hòa hợp
thì tan rã. Đó là lý tương sinh và tương khắc. Nếu như thấy được thân này là
một hợp tướng, là vô ngã, không có chủ thể thì nhìn tất cả các pháp cũng chỉ là
một hợp tướng. Như vậy, khi thấy được tất cả đều do duyên hợp thì đều
không thật có, không có chủ thể. Nếu chúng ta đem ánh bình minh giác ngộ
đó mà soi rọi vào tất cả mọi ngõ ngách của cuộc đời thì sẽ thấy được tất cả đều
là giả, mà giả thì đâu thực có. Tam đoạn luận của Bát nhã đã triển khai điều
này. Ở trong thế giới sinh diệt hữu vi, lý một hợp tướng không bao giờ sai biệt
trong khoảng thời gian và không gian này. Những người có sức tu thì không rộn
ràng. Họ thâm trầm, hướng nội từng thời khắc để chơn trí tỏ rõ. Chúng ta cần có
tuệ giác Bát nhã để sống an vui . Đức Phật khi đã giác ngộ rồi thì Ngài đạt
được hạnh phúc nhất trần gian. Vua Trần Nhân Tông bỏ ngôi lên núi Yên Tử tu
hành, giác ngộ thấy được lẽ thật không mê lầm, không còn bị phiền não, tham sân
si, vô minh chi phối nên cũng vô cùng hạnh phúc. Hạnh phúc ở đây là dừng lại,
nhìn sâu thấy rõ, không còn bị mê lầm.
Lý một hợp tướng không thuộc về có vì
không có thật thể, không thuộc về không vì hiện giả có. Đó là ngôn ngữ của Bát
nhã. Ở châu Á có nền đạo lý gọi là đạo học, có đạo học thậm thâm thì cần học
hỏi mới cứu vãn sự nguy hiểm của tình hình thế giới hiện đại đang có nguy cơ bị
hủy diệt do hiệu ứng nhà kính, tan băng Bắc cực, ô nhiễm môi trường, ô nhiễm
không khí, ô nhiễm mặt đất, ô nhiễm nguồn nước. Khoa học đã tạo nên một cuộc sống
đầy đủ và sung túc cho nhân loại, nhưng đồng thời con người cũng bị đe
dọa bởi bạo lực và chiến tranh, vì khoa học chế tạo ra bom đạn, vũ khí hạt nhân
làm ảnh hưởng đến đời sống con người. Bão lụt, động đất, sóng thần mang tính vĩ
mô. Tất cả xảy ra đều là do ảnh hưởng của nền khoa học tiên tiến. Nếu chúng
sanh hạn chế được tham sân si thì sẽ sống trong tinh thần tương thân, tương ái
và con người ngày càng minh triết hơn. Nếu còn nuôi dưỡng tham sân si thì đó là
cái họa của chiến tranh. Các nhà khoa học cần được đạo đức tâm linh soi đường.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ và từ bi . Chính vì vậy mà Liên Hiệp Quốc đã chọn
đạo Phật là đạo đem đến hòa bình, an lạc cho cả thế giới .
Các pháp giả hợp có nhiều phương diện diễn
đạt và triển khai gọi là duyên khởi tánh không mà trước đó là hữu vi duyên
khởi. Hữu vi là có sanh, có diệt, có giả hợp. Các Ngài sống vượt ra khỏi trạng
thái sinh, diệt, ly, hợp và vượt lên thói thường, sống trong thế giới siêu
nhiên, gọi đó là Niết bàn. Thân này có mặt bằng những yếu tố không phải thân. Thân
không có ngã, không có chủ thể, thân là vô thể. Điều này rất khoa học, vì Đức
Phật chưa bao giờ ru ngủ tín đồ.
Câu chuyện Ngài Phật Ấn và Tô Đông Pha đã
cho chúng ta thấy đây là đôi bạn thân nhiều đời , nhiều kiếp. Phật Ấn tu hành,
làm sư sãi ở chùa sống bằng trí tuệ Bát nhã. Tô Đông Pha là nhà thơ ở đời
Đường, rất thông minh, hiểu Phật pháp nhưng không có chỗ ngộ vì còn đam mê trần
gian huyễn mộng, sống vương giả, năm thê bảy thiếp. Một bữa nọ, Phật Ấn theo hỗ
trợ cho Tô Đông Pha tọa thiền. Sau khi xả thiền, Phật Ấn đã giúp Tô Đông Pha
nhận ra chân lý sáng ngời: “Tâm tịnh thì tất cả các pháp đều thanh tịnh, tâm
như các pháp như, tâm bình thế giới bình.” Tô Đông Pha sau khi được Phật Ấn
nâng đỡ đạt đến trình độ hiểu Thiền thâm hậu , ông đã lưu xuất một bài thơ nổi
tiếng:
“Lô-sơn yên tỏa ,
Chiết-giang triều
Vị đáo sanh bình
hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai
vô biệt sự
Lô-sơn yên tỏa,
Chiết-giang triều.”
Nghĩa:
Mù tỏa Lô-sơn,
sóng Chiết-giang
Khi chưa đến được
hận muôn ngàn
Đến rồi về lại
không gì khác
Mù tỏa Lô-sơn,
sóng Chiết-giang.
Toàn bộ nhân sinh vũ trụ đều là duyên khởi
tánh không. Con người gồm có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Tất cả đều
là giả hợp duyên khởi , tức là duyên hợp thì có sáu đối tượng thu nạp để tiếp
thu vào bên trong. Nghĩa là mắt phải tiếp xúc với trần cảnh gọi là sắc, tai
phải tiếp xúc với tiếng, mũi tiếp xúc với mùi, lưỡi tiếp xúc với vị, thân tiếp
xúc với xúc và ý thì duyên với pháp trần. Bên trong có sáu căn, bên ngoài có
sáu trần nên gọi là thập nhị xứ. Thập nhị xứ bao gồm: bên trong có sáu nội xứ,
bên ngoài có sáu ngoại xứ, nhưng đặc biệt ở chỗ là: mắt không bao giờ
nghe được tiếng, tai không bao giờ thấy được sắc ... Mỗi căn đều có trần tương
ứng để tiếp thu và phân biệt. Mắt thấy sắc thì sanh tâm phân biệt gọi là nhãn
thức. Tai nghe được tiếng liền sanh tâm phân biệt gọi là nhĩ thức. Mũi ngửi được
mùi bèn sanh tâm phân biệt gọi là tỷ thức. Lưỡi nếm được mùi vị nên sanh tâm
phân biệt gọi là thiệt thức. Thân tiếp xúc với xúc trần gọi là thân thức. Ý căn
tiếp xúc với pháp trần phát sinh ý thức.
Như vậy sáu căn, sáu trần và sáu thức gộp
lại gọi là Mười tám giới phân biệt, nên mới có thân, tâm và cảnh giới này. Sáu
thức tâm phân biệt và sáu căn bên trong là nhân sinh quan. Còn sáu trần bên
ngoài là vũ trụ quan. Vũ trụ quan là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Sáu căn,
sáu trần tác động giao thoa rồi mới sinh ra sáu thức, nhưng nếu tách rời sáu thức
ra khỏi sáu căn và sáu trần thì sáu thức cũng không hiện hữu được. Căn, trần và
thức đều là duyên khởi nên là tánh không. Tánh không bao trùm tất cả vũ trụ vạn
loại, nên nhà Phật mới suy tiến lý như huyễn như mộng của các pháp.
Hòa thượng Trúc Lâm đã từng nói đến tri vọng: “ Sáu căn là vọng, sáu
trần là vọng, sáu thức phân biệt là vọng. Nếu con người buông xả các chấp hư
vọng thì mới sống được với lẽ chân thường, nên nói cuộc sống này là huyễn mộng
và hư vọng như giấc chiêm bao.” Kinh Kim Cang nói: “Nhược kiến chư tướng phi tướng
tức kiến Như Lai ” nghĩa là nếu thấy được tất cả tướng trạng đều phi tướng thì
sẽ thấy được Như Lai. Do chúng ta chấp thật nên mới kết tập thành chủng nghiệp,
đam mê rồi tạo nghiệp triền miên khổ ải. Các Ngài sống bằng tâm thinh lặng,
chân chất tự cõi lòng nên nhìn sâu và thấy rõ bằng trí tuệ Bát nhã. Còn chúng
ta sống bằng tâm phân biệt nên tùy theo cách nhìn mà mỗi người trở thành phàm
phu hay thánh nhân.
Thân con người có sinh, già, bệnh và chết.
Các pháp giữa thế gian có sinh, trụ, dị, diệt. Một chu kỳ của vũ trụ có thành,
trụ, hoại, không. Nếu con người giữ được tâm bình tĩnh thì cận tử nghiệp sẽ nhẹ
nhàng và có sức tự tại. Thiền sư Duy Tín đời Tống nói rằng: “Sãi tôi khi mới tu
thì thấy núi là núi, sông là sông; nhưng khi sãi tôi tu một thời gian, có được
công phu thì thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông; sau ba mươi
năm tu hành sãi tôi giác ngộ, hoàn toàn tự tại thì lại thấy núi vẫn là núi và
sông vẫn là sông, y nhiên như thị.” Pháp không thật có nên gọi là diệu hữu,
Pháp không thật không nên gọi là chơn không. Không mà chơn, hữu mà diệu. Có
nhưng rất vi diệu vì không phải ở trạng thái phàm phu để nhìn nữa nên
liền chuyển Ta bà thành Tịnh Độ. Khi ánh giác bùng lên thì khắp cả thế gian
ngập tràn ánh giác; rồi lúc ánh giác tắt lịm, vô minh nghiệp chướng ùa đến thì
cõi ấy là Ta bà khổ đau. Tịnh Độ hay Ta bà nằm trong tâm của chúng ta.
Rõ ràng tất cả các pháp đang hiện hữu nhưng hiện hữu một cách ước
lệ, tồn tại trong sự chuyển động vô thường, tồn tại trong sự tương thuộc liên
hệ chằng chịt những yếu tố nhân duyên. Các pháp đang tồn tại trong chuyển động
và giả hợp nên các pháp không đứng yên một cách cố định và không tự độc lập
hình thành mà phải vay mượn. Chính vì thế mà nói các pháp vì vô thường giả hợp
mà có mặt một cách ước lệ chứ không phải thực có. Nếu hiểu được như thế thì
chúng ta sẽ thấy các pháp đều phi và không nên chấp.
“Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Như là
nơi không bị phân tâm, Lai là nhìn, thấy và nghe nhưng không mất đi trạng thái
bất biến đó. Đức Phật từ Như mà đến cõi này. Ngài đạt đến bất biến mà tùy duyên
cứu độ chúng sanh trong 49 năm, và 80 năm hiện hữu trên cuộc đời này là một
điều vi diệu. Ngài như một đóa hoa sen vươn lên khỏi bùn nhơ nước đục, tỏa
hương sắc dâng hiến cho đời. Hoa sen tượng trưng cho tánh vô nhiễm, ở trong
trần mà Ngài không nhiễm trần, ở thế gian mà Ngài xuất thế gian.
Đức Phật sống tự tại và vô nhiễm giữa cuộc đời. Phật là Bậc
Giác ngộ, Pháp là đuốc soi đường, Tăng là người đưa đường chỉ lối. Phật đã nhập
Niết bàn, Pháp còn đó và nhờ Tăng hoằng dương. Phật tử đến chùa,“Tiên bái trụ
trì, hậu bái Thích Ca” vì chính nhờ quý Thầy mà Phật tử mới biết đến giá trị
của Phật và Pháp.
Đức Phật đã đạt được Niết bàn tự tại, thế nào là Niết bàn?
Niết bàn là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si. Niết bàn là
dập tắt tham, dập tắt sân, dập tắt si. Dịch ra là vô vi, tịch diệt, diệt độ.
Nếu nói theo nhà Thiền thì Niết bàn là tâm của chúng ta. Niết bàn là giác, là
bản tâm thanh tịnh xưa nay, là chơn tâm, Phật tánh của chúng ta. Hay nói cách
khác, Niết bàn là đương thể của tâm vô nhiễm. Trong Phật giáo, Niết bàn bao
gồm: Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn. Nhà Phật phân loại Hữu dư Niết bàn và
Vô dư Niết bàn như sau:
Cách phân loại thứ nhất :
Hữu dư Niết bàn là gì? Người tu hành đạt được trạng thái
không sinh tử, vượt qua sinh tử đến bến bờ an vui giải thoát hoàn toàn, nhưng
nhục thân này còn ở lại trên thế gian. Đó là Hữu dư Niết bàn. Các vị A la hán sanh
đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn sinh tử nữa, nhưng phần
nhục thể còn tồn tại thì đó là dư tàn của nghiệp.
Vô dư Niết bàn là gì? Người tu hành đạt được trạng thái vô nhiễm
rồi xả bỏ báo thân lại cuộc đời và phần nhục thể không còn nữa, hoàn toàn không
còn dư báo ở thân này thì gọi là Vô dư Niết bàn.
Cách phân loại thứ hai :
Quả đầu tiên gọi là Tu đà hoàn. Quả thứ hai là Tư đà hàm. Quả thứ
ba là A na hàm. Quả thứ tư là A la hán. Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A na hàm là ba
quả chưa đoạn sạch phiền não, dư tàn tập khí còn lấp loáng, vì còn dư tàn đó
nên gọi là Hữu dư Niết bàn.
Người còn thân này trên cuộc đời, nhưng đạt được quả A la hán, đạt
được vô sanh, không còn dư tàn phiền não, không còn nhiễm dục trần thì nội tâm
hoàn toàn thanh tịnh, dẹp sạch tâm hành, ở trong trạng thái lặng lẽ của bổn tâm
gọi là Vô dư Niết bàn.
Trong Kinh Nikaya có những pháp thoại liên tưởng đến Niết bàn, Đức
Phật dạy:
“Này các Tỳ kheo! Có xứ này, tại đây không có đất, không có nước, không
có lửa, không có gió, không có hư không vô biên ... không có phi phi tưởng xứ;
không có đời này, không có đời sau; không có cả hai mặt trăng, mặt trời. Do
vậy, này các Tỳ kheo! Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú,
không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở
duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”
Pháp thoại thứ hai liên tưởng đến Niết bàn, Đức Phật dạy:
“Này các Tỳ kheo! Có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm,
không hữu vi. Này các Tỳ kheo! Nếu không có cái không sanh, không hiện hữu,
không bị làm, không hữu vi, thời ở đây không thể trình bày sự xuất ly khỏi
sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.”
Cuộc đời này có cái hữu vi, sanh diệt, giả hợp nhưng hư không thì không
có sanh diệt, không có giả hợp. Pháp hữu vi có tướng trạng còn hư không thì
không có tướng trạng. Cái gì có hữu vi, có tướng trạng, có sanh diệt, có giả
hợp thì có thời gian tồn tại và sau đó sẽ hủy diệt. Còn cái không thuộc về hữu
vi, không thuộc về tướng trạng, rỗng rang thì muôn đời bất diệt. Hư không không
hạn lượng tuổi thọ, chính vì vậy hư không rất tự tại. Còn thân chúng ta gió
thổi bay, nước mưa ướt, lửa đốt cháy, nước nhấn chìm, nhưng hư không thì vô
nhất vật, tự tại.
Cuộc sống của chúng ta có lúc vui buồn, sướng khổ, đắc thất, thịnh
suy. Có thể sánh cuộc đời chúng ta như dòng sông, dòng sông có lúc nước dâng
cao, lúc hạ xuống thấp, lúc nước đục ngầu, lúc nước trong veo, lúc nước chảy
xiết, chảy cuồn cuộn, lúc nước chảy hiền hòa.
Và đây là pháp thoại thứ ba liên tưởng đến Niết bàn:
“Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái gì không nương tựa,
cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời
không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có đến và
đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời không có đời này,
không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau.”
Niết bàn cũng
rất tự tại như hư không, người đạt đến Niết bàn là người sống an ổn, vui vẻ
nhất trên cuộc đời này, là người vượt khỏi sinh, lão, bệnh, tử. Diễn tả chân lý
Niết bàn, Đức Phật đã vận dụng một loại hình ngôn ngữ thật khó hiểu, nhưng nhờ
tu tập với trình độ tương đối có thể thâm nhập được bằng công phu thì chúng ta
có thể hiểu: Hư không không có nương tựa vào nơi nào cả nhưng hư không có mặt ở
khắp mọi nơi một cách tự tại. Ngài Huệ Năng nói: “Bản lai vô nhất vật, hà xứ
nhạ trần ai.” Thiền sư Minh Chánh nói: “ Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật, công
phu luống uổng một đời ai .”
Chúng ta tu để trở về trạng thái vô nhất
vật, tức là bản tâm bản tánh của chúng ta, trở về Đạo-nhân vô-y (Cái gì có
nương tựa , cái đó có giao động; cái gì không nương tựa, cái đó không giao
động). Những người đạt đến trạng thái bất động của tâm thì không bao giờ giao
động trước tiền cảnh, đó là sự thể nhập của người tu, đó là sự thú vị, tiêu
diêu chơn thế giới, khoái lạc hưởng vô biên. Trước khi bắt đầu học đạo, trước khi
thấy được Phật, Ngài Xá Lợi Phất gặp Tỳ-kheo A Thị Thuyết trì bình khất
thực với dáng vẻ tự tại, an nhiên thì trong lòng dâng niềm quý kính, liền xin
hỏi đạo lý và được Tỳ kheo A Thị Thuyết trình bày về lý duyên sinh. Ngài Xá Lợi
Phất đạt được sơ quả, liền nhờ Tỳ kheo A Thị Thuyết đưa đến gặp Đức Phật và sau
đó đạt được A la hán quả. Ngài Mục Kiền Liên nghe Ngài Xá Lợi Phất nói bài kệ
lý duyên sinh của A Thị Thuyết cũng liền ngộ đạo.
Tóm lại, Đức Phật là Bậc Giác ngộ, đã đạt
được Niết bàn. Ngài đã giúp chúng ta có được ánh sáng giác ngộ, hiểu được ý
nghĩa Niết bàn là tối hậu của người tu, mà Đại thừa gọi là Chơn-tâm, Phật tánh,
Bản-lai-diện-mục. Từ sự thể nhập đó, các Ngài muốn sanh về cõi nào thì bằng
nguyện lực độ sinh chứ không phải bằng nghiệp dẫn nữa.
|
[img]https://lh5.googleusercontent.com/-kIubon0zPmg/UjmP1lGbuCI/AAAAAAAA2GA/2FmDaTAeFIY/w426-h448/R+%281%29.gif[/img]
Trả lờiXóaKính nừng bạn hữu A Tám Lê đến với trang blog Phật pháp.....rấ mong bạn hữu thường đến để cùng nghiên cứu thêm về giáo lý nhà Phật bạn nhé....
Xóa