
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại
Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo
tên là Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như
tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng
không đổi khác".
Một số đông
Tỷ-kheo nghe như sau: "Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà
kiến như sau: 'Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong
ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác'". Rồi những Tỷ-kheo ấy đi đến chỗ
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá ở, khi đến xong liền nói với Tỷ-kheo Sati,
con của người đánh cá như sau:
-- Này Hiền giả
Sati, có đúng sự thật chăng, Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo
như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển
nhưng không đổi khác".
-- Thật sự là
vậy, chư Hiền, theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong
ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.
Rồi những
Tỷ-kheo ấy muốn Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy, liền
cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:
-- Hiền giả
Sati, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không tốt.
Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói
thức do duyên khởi; không có duyên thì thức không hiện khởi. Tỷ-kheo Sati, con
của người đánh cá, dù được các Tỷ-kheo ấy cật vấn, thảo luận, vẫn nói lên ác tà
kiến ấy, cứng đầu chấp chặt, nắm chặt tà kiến ấy.
-- Thật sự là
vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong
ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.
Vì các Tỷ-kheo
ấy không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con người đánh cá từ bỏ ác tà kiến ấy, nên
các vị ấy đến chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong, đảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống một bên.
Sau khi ngồi xuống một bên, những Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi lên ác tà kiến như sau:
"Theo tôi hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân
chuyển, nhưng không đổi khác". Bạch Thế Tôn, chúng con nghe: "Tỷ-kheo
Sati, con của người đánh cá khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo tôi hiểu
pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi
khác"". Bạch Thế Tôn, rồi chúng con đi đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của
người đánh cá ở, khi đến xong, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh
cá:"
-- Này Hiền giả
Sati, có đúng sự thật chăng? Hiền giả khởi lên ác tà kiến như sau: 'Theo tôi
hiểu, pháp Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không
đổi khác'".
Bạch Thế Tôn,
khi nghe nói vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá nói với chúng con như
sau:"
-- Thật sự là
vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng
không đổi khác.
Bạch Thế Tôn,
chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà kiến ấy,
liền cật vấn, nạn vấn lý do, thảo luận:"
-- Hiền giả
Sati chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn là không
tốt. Thế Tôn không có nói như vậy. Hiền giả Sati, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp
môn nói thức do duyên khởi, không có duyên thì thức không hiện khởi.
"Bạch Thế
Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá dầu cho được chúng con cật vấn, nạn
vấn lý do, thảo luận, vẫn nói lên ác tà kiến ấy, cứng đầu, chấp chặt, nắm chặt
tà kiến ấy:"
-- Thật sự là
vậy, theo tôi hiểu, Thế Tôn thuyết giảng thì thức này dong ruổi, luân chuyển
nhưng không đổi khác".
Bạch Thế Tôn,
vì chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, từ bỏ ác tà
kiến ấy, nên chúng con đến hỏi Thế Tôn ý nghĩa này."Rồi Thế Tôn gọi một
Tỷ-kheo khác:
-- Này Tỷ-kheo,
hãy đi và nhân danh Ta, gọi Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá: "Hiền giả
Sati, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả".
-- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng
lời Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, sau khi đến, liền nói
với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:
-- Hiền giả
Sati, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả.
-- Thưa vâng,
Hiền giả.
Tỷ-kheo Sati,
con của người đánh cá đáp lời Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Sati, con của
người đánh cá, đang ngồi xuống một bên:
-- Này Sati, có
thật chăng, Ông khởi lên ác tà kiến như sau: "Theo như tôi hiểu pháp Thế
Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi
khác"?
-- Thật sư là
vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu pháp Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này
dong ruổi, luân chuyển nhưng không đổi khác.
-- Này Sati,
thế nào là thức ấy?
-- Bạch Thế
Tôn, chính thức ấy nói cảm thọ, thọ lãnh chỗ này, chỗ kia, kết quả các hành
động thiện ác.
-- Này kẻ mê mờ
kia, vì ai mà Ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Này kẻ mê mờ kia, có
phải chăng, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói là thức do duyên khởi, không có
duyên, thì thức không hiện khởi? Và này kẻ mê mờ kia, không những Ông xuyên tạc
Ta, vì Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông còn tự phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn
đức. Này kẻ mê mờ kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho
Ông.
Rồi Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo:
-- Chư Tỷ-kheo,
các Ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, có thể khởi lên tia
lửa sáng gì trong Pháp, Luật này không?
-- Bạch Thế
Tôn, làm sao có thể có được, không thể được, bạch Thế Tôn.
Ðược nói vậy,
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, im lặng, hổ người, thụt vai, cúi đầu, lo
âu, câm miệng. Rồi Thế Tôn sau khi biết được Tỷ-kheo Sati, con của người đánh
cá, đang im lặng, hổ ngươi, thụt vai, cúi đầu, lo âu, câm miệng, bèn nói với
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:
-- Này kẻ mê mờ
kia, người ta sẽ biết Ông qua ác tà kiến của chính Ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các
Tỷ-kheo.
Rồi Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo:
-- Chư Tỷ-kheo,
các Ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng giống như Tỷ-kheo Sati, con của người đánh
cá này, không những đã xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, mà còn tự phá
hoại mình và tạo nên nhiều tổn đức?
-- Bạch Thế
Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên
khởi, không có duyên, thức không hiện khởi.
-- Lành thay,
chư Tỷ-kheo, lành thay, chư Tỷ-kheo, các Ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy!
Chư Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn nói thức do duyên khởi. Không có duyên,
thức không hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, không những
xuyên tạc Ta vì đã tự chấp thủ sai lạc, còn tự pháp hoại mình và tạo nên nhiều
tổn đức, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho kẻ mê mờ ấy.
(Duyên sanh
Thức)
Này các
Tỷ-kheo, do duyên mà thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên
mắt và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các
tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương,
thức sanh, và thức ấy có tên là tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và
thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh và thức ấy có
tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý
thức. Này các Tỷ-kheo, do duyên nào lửa sanh và lửa ấy có tên tùy theo duyên
ấy: duyên củi, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa củi. Duyên vỏ gỗ bào, lửa sanh, lửa
ấy gọi là lửa vỏ bào. Duyên cỏ, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa cỏ. Duyên phân bò,
lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa phân bò. Duyên trấu, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa
trấu. Duyên đống rác, lửa sanh, lửa ấy gọi là lửa đống rác. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, do duyên, thức sanh, và thức ấy có tên tùy theo duyên ấy. Do duyên mắt
và các sắc, thức sanh, và thức ấy có tên là nhãn thức. Do duyên tai và các
tiếng, thức sanh, và thức ấy có tên là nhĩ thức. Do duyên mũi và các hương,
thức sanh, và thức ấy có tên và tỷ thức. Do duyên lưỡi và các vị, thức sanh, và
thức ấy có tên là thiệt thức. Do duyên thân và các xúc, thức sanh, và thức ấy
có tên là thân thức. Do duyên ý và các pháp, thức sanh, và thức ấy có tên là ý
thức.
(Các câu hỏi về
sanh vật)
Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy sanh vật này không?
-- Bạch Thế
Tôn, có thấy.
- -Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy sự tác thành sanh vật do món ăn ấy không?
-- Bạch Thế
Tôn, có thấy.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông có thấy, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy cũng bị
đoạn diệt không?
-- Bạch Thế
Tôn, có thấy.
-- Này các
Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Sanh vật này có thể không có mặt?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay
không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, vì do dự nên nghi hoặc sanh. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật
ấy có thể bị đoạn diệt hay không bị đoạn diệt?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ
diệt. Sanh vật này có thể không có mặt?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ
diệt. Sự tác thành của món ăn ấy có thể có hay không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, nếu thấy như thật với chánh trí tuệ, thì sự nghi ngờ này được trừ
diệt. Do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật có thể bị đoạn diệt hay không bị
đoạn diệt?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải
không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, sự tác thành của món ăn ấy, (đối với vấn đề này), ở đây, các Ông có
phải không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối
với vấn đề này), ở đây, các Ông có phải không có nghi hoặc không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, sanh vật này có mặt, (đối với vấn đề này) có phải các Ông khéo thấy
nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
- Này các
Tỷ-kheo, sự hiện hữu của sanh vật ấy là do các món ăn ấy tác thành,... này, có
phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt các món ăn ấy, sanh vật ấy có thể bị đoạn diệt, (đối
với vấn đề này), có phải các Ông khéo thấy nhờ như thật chánh trí tuệ không?
-- Bạch Thế
Tôn, có vậy.
-- Này các
Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong sáng
như vậy, nếu các Ông chấp trước, lấy làm hãnh diện, truy cầu, xem là của mình,
thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng
dạy là để đưa vượt qua, không phải để nắm lấy?
-- Bạch Thế
Tôn, không.
-- Nhưng này
các Tỷ-kheo, đối với tri kiến này được thanh tịnh như vậy, được làm cho trong
sáng như vậy, nếu các Ông không chấp trước, không lấy làm hãnh diện, không truy
cầu, không xem là của mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ của
mình, thì này các Tỷ-kheo, các Ông có thể hiểu ví dụ là của mình, thì này các
Tỷ-kheo, các Ông có thể ví dụ chiếc bè, nói Pháp được giảng dạy là để đưa vượt
qua, không phải để nắm lấy?
-- Bạch Thế
Tôn, có.
(Thức ăn và
Duyên khởi)
-- Này các
Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp cho an trú các loài hữu tình đã sanh hay phò trợ
các loài hữu tình sẽ sanh. Thế nào là bốn? Ðoàn thực hoặc thô hoặc tế, thứ hai
là xúc thực, thứ ba là tư niệm thực, và thứ tư là thức thực.
Và này các
Tỷ-kheo bốn món ăn này, lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm
sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái làm nhân duyên, lấy
ái làm tập khởi, lấy ái làm sanh chủng, lấy ái làm nguyên nhân. Này các
Tỷ-kheo, ái này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh
chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm tập khởi,
lấy thọ làm sanh chủng, lấy thọ làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ này lấy
gì làm nguyên nhân, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm
nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm sanh
chủng, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc này lấy gì làm nhân duyên,
lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu
nhập làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm sanh chủng,
lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập này lấy gì làm nhân
duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Sáu
nhập lấy danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi, lấy danh sắc làm
sanh chủng, lấy danh sắc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc này lấy gì
làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên
nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức là tập khởi, lấy thức làm sanh
chủng, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thức này lấy gì làm nhân
duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Thức
lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm sanh chủng, lấy hành
làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, các hành này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì
làm tập khởi, lấy gì làm sanh chủng, lấy gì làm nguyên nhân? Các hành lấy vô
minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm sanh chủng, lấy
vô minh làm nguyên nhân.
(Duyên theo
chiều thuận)
Như vậy, này
các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc
duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ,
thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não được
hiện hữu. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Duyên theo
chiều nghịch)
Trước đã nói:
Sanh duyên già, chết (Do duyên sanh nên già, chết hiện khởi). Này các Tỷ-kheo,
sanh duyên già, chết có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, sanh duyên già, chết. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Sanh duyên già, chết.
-- Trước đã
nói: hữu duyên sanh. Này các Tỷ-kheo, hữu duyên sanh có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, hữu duyên sanh. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hữu
duyên sanh.
-- Trước đã
nói: Thủ duyên hữu. Này các Tỷ-kheo, thủ duyên hữu có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, thủ duyên hữu. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thủ duyên
hữu.
-- Trước đã
nói: Ái duyên thủ. Này các Tỷ-kheo, ái duyên thủ có phải không? Hay ở đây, (nghĩa)
như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, ái duyên thủ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Ái duyên
thủ.
-- Trước đã
nói: Thọ duyên ái. Này các Tỷ-kheo, thọ duyên ái có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, thọ duyên ái. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thọ duyên
ái.
- Trước đã nói:
Xúc duyên thọ. Này các Tỷ-kheo, xúc duyên thọ có phải không? Hay ở đây (nghĩa)
như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, xúc duyên thọ. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Xúc duyên
thọ.
-- Trước đã
nói: Sáu nhập duyên xúc. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập duyên xúc có phải không? Hay
ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, sáu nhập duyên xúc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Sáu
nhập duyên xúc.
-- Trước đã
nói: Danh sắc duyên sáu nhập. Này các Tỷ-kheo, danh sắc duyên sáu nhập có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, danh sắc duyên sáu nhập. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Danh sắc duyên sáu nhập.
-- Trước đã
nói: Thức duyên danh sắc. Này các Tỷ-kheo, thức duyên danh sắc có phải không?
Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, thức duyên danh sắc. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Thức
duyên danh sắc.
-- Trước đã
nói: Hành duyên thức. Này các Tỷ-kheo, hành duyên thức có phải không? Hay ở đây
(nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, hành duyên thức. Như vậy, đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy: Hành
duyên thức.
-- Trước đã
nói: Vô minh duyên hành. Này các Tỷ-kheo, vô minh duyên hành có phải không? Hay
ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, vô minh duyên hành. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy: Vô
minh duyên hành.
(Tóm lược về
Duyên)
-- Lành thay,
này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này có
nên cái kia có, cái này sanh nên cái kia sanh", như vô minh duyên hành,
hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên
xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh,
sanh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não cùng sanh khởi. Như vậy, là sự tập
khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo
chiều thuận)
Do vô minh đoạn
diệt, xả ly một cách hoàn toàn nên các hành diệt. Do các hành diệt nên thức
diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do
sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt.
Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh diệt.
Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não đều diệt. Như vậy là sự đoạn
diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo
chiều nghịch)
Trước đã nói:
Do sanh diệt nên già, chết diệt. Này các Tỷ-kheo, do sanh diệt nên già, chết
diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do sanh diệt nên già, chết diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây
là vậy: Do sanh diệt nên già, chết diệt.
-- Trước đã
nói: Do hữu diệt nên sanh diệt. Này các Tỷ-kheo, do hữu diệt nên sanh diệt có
phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do hữu diệt nên sanh diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy:
Do hữu diệt nên sanh diệt.
-- Trước đã
nói: Do thủ diệt nên hữu diệt. Này các Tỷ-kheo, do thủ diệt nên hữu diệt có
phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do thủ diệt nên hữu diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Do thủ diệt nên hữu diệt.
-- Trước đã
nói: Do ái diệt nên thủ diệt. Này các Tỷ-kheo, do ái diệt nên thủ diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do ái diệt nên thủ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Do ái diệt nên thủ diệt.
-- Trước đã
nói: Do thọ diệt nên ái diệt. Này các Tỷ-kheo, do thọ diệt nên ái diệt có phải
không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do thọ diệt nên ái diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là vậy:
Do thọ diệt nên ái diệt.
-- Trước đã
nói: Do xúc diệt nên thọ diệt. Này các Tỷ-kheo, do xúc diệt nên thọ diệt có
phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do xúc diệt nên thọ diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là vậy:
Do xúc diệt nên thọ diệt.
-- Trước đã
nói: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Này các Tỷ-kheo, do sáu nhập diệt nên xúc
diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là
vậy: Do sáu nhập diệt nên xúc diệt.
-- Trước đã
nói: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Này các Tỷ-kheo, do danh sắc diệt nên
sáu nhập diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở
đây là vậy: Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt.
-- Trước đã
nói: Do thức diệt nên danh sắc diệt. Này các Tỷ-kheo, do thức diệt nên danh sắc
diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do thức diệt nên danh sắc diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây
là vậy: Do thức diệt nên danh sắc diệt.
-- Trước đã
nói: Do hành diệt nên thức diệt. Này các Tỷ-kheo, do hành diệt nên thức diệt có
phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do hành diệt nên thức diệt. Như vậy đối với chúng con (nghĩa) ở đây là
vậy: Do hành diệt nên thức diệt.
-- Trước đã
nói: Do vô minh diệt nên hành diệt. Này các Tỷ-kheo, do vô minh diệt nên hành
diệt có phải không? Hay ở đây (nghĩa) như thế nào?
-- Bạch Thế
Tôn, do vô minh diệt nên hành diệt. Như vậy đối với chúng con, (nghĩa) ở đây là
vậy: Do vô minh diệt nên hành diệt.
(Tóm lược về
Diệt)
- Lành thay,
này các Tỷ-kheo! Các Ông nói như vậy và Ta cũng nói như vậy: "Cái này
không có nên cái kia không có, cái này diệt nên cái kia diệt", như vô minh
diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh
sắc diệt nên sáu nhập diệt, sáu nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt,
thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên
sanh diệt, sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt. Như vậy là sự
đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Tri kiến về
ngã)
Này các
Tỷ-kheo, các Ông nên biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời quá khứ,
và suy nghĩ: "Ta có mặt trong thời quá khứ hay không có mặt trong thời quá
khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào? Ta có mặt trong thời quá khứ,
hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta có mặt như thế nào trong thời quá
khứ"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, có còn chạy theo thời vị lai, và
suy nghĩ: "Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ không có mặt trong
thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta sẽ có mặt trong
thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia là gì và ta sẽ có mặt như thế nào
trong thời vị lai"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nghi ngờ gì về mình
trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt. Ta có mặt như thế
nào? Ta có mặt, hình vóc như thế nào? Hữu tình này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi
đâu"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Bậc
Ðạo Sư được chúng ta tôn trọng. Chúng ta nói vì chúng ta tôn trọng bậc
Ðạo Sư"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có nói như sau: "Một
Sa-môn nói với chúng tôi như vậy, các Sa-môn khác cũng nói như vậy, và còn
chúng tôi không có nói như vậy"?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có tìm một vị Ðạo Sư khác
không?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, các Ông biết như vậy, thấy như vậy, các Ông có trở lui lại các giới
cấm, tế tự đàn tràng của các tục tử Sa-môn, Bà-la-môn và nghĩ rằng chúng là căn
bản không?
-- Thưa không,
bạch Thế Tôn.
-- Này các
Tỷ-kheo, có phải các Ông chỉ nói những gì các Ông tự biết, tự thấy, tự ý thức
được?
-- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
-- Lành thay,
này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, các Ông đã được Ta giới thiệu Chánh Pháp,
Pháp này thiết thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự thân giác hiểu. Này các Tỷ-kheo, Pháp này thiết
thực, hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng,
được người trí tự thân giác hiểu. Tất cả những gì đã nói là do duyên này mà nói.
(Vòng luân hồi:
từ sanh đến trưởng thành)
Này các
Tỷ-kheo, có ba sự hòa hợp mà một bào thai thành hình: ở đây, cha mẹ có giao hợp
và người mẹ không trong thời có thể thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không
hiện tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Ở đây, cha và mẹ có giao hợp,
và người mẹ trong thời có thể thụ thai, nhưng hương ấm (gandhabba) không hiện
tiền, như vậy bào thai không thể thành hình. Và này các Tỷ-kheo, khi nào cha mẹ
có giao hợp, và người mẹ trong thời có thể thụ thai, và hương ấm có hiện tiền;
có ba sự hòa hợp như vậy, thì bào thai mới thành hình.
Rồi này các
Tỷ-kheo, người mẹ trong chín hay mười tháng mang bào thai ấy, với sự lo âu lớn
đối với gánh nặng ấy. Rồi này các Tỷ-kheo, sau chín hay mười tháng, người mẹ
sinh đẻ với sự lo âu lớn đối với gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi hài
nhi ấy với máu của mình. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa của bà
mẹ được xem là máu.
Này các
Tỷ-kheo, đứa trẻ ấy, sau khi lớn lên, sau khi các căn đã thuần thục, chơi với
những trò chơi dành cho các đứa trẻ, như với cái cày nhỏ, chơi khăn, chơi nhảy
lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ đong bằng lá, chơi xe con, chơi cung
nhỏ.
Này các
Tỷ-kheo, đứa trẻ sau khi lớn lên, sau khi các căn do mắt nhận thức, được thuần
thục, thọ hưởng đầy đủ năm món dục lạc; các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả
ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; các tiếng do tai nhận
thức... Các hương do mũi nhận thức... Các vị do lưỡi nhận thức... Các xúc do
thân cảm xúc; các xúc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục.
(Tiếp tục luân
hồi)
Khi thấy sắc bằng
mắt, người đó tham ái đối với sắc đẹp, người đó ghét bỏ đối với sắc xấu, người
đó sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như
thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất
thiện pháp của người đó được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy, đối diện với
thân, sơ (thuận, nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ
bất lạc thọ, người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan
nghênh, tham trước cảm thọ ấy, nên dục sanh hỷ, có tâm dục hỷ đối với những cảm
thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ.
Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên
già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ
uẩn này.
Khi người đó
nghe tiếng với tai... khi người đó ngửi hương với mũi... khi người đó nếm vị
với lưỡi... khi người đó cảm xúc với thân... khi người đó nhận thức pháp
với ý, người đó tham ái đối với pháp tốt, ghét bỏ đối với pháp xấu. Người đó
sống niệm không an trú trên thân, với một tâm nhỏ mọn. Người đó không như thật
tuệ tri đến tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác, bất
thiện pháp của người đó được trừ diệt, không còn dư tàn. Như vậy, đối diện với
thân, sơ (thuận, nghịch), có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất
khổ bất lạc thọ. Người đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy. Vì người
đó tùy hỷ, hoan nghênh, tham trước cảm thọ ấy nên dục hỷ sanh. Có tâm dục hỷ
đối với những cảm thọ ấy, tức là chấp thủ. Do duyên thủ nên hữu sanh; do duyên
hữu nên sanh sinh khởi; do duyên sanh nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não
sanh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Ðoạn tận luân
hồi: Sự tu tập)
Ở đời, này các
Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này
với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn,
Bà-la-môn, Thiên, Nhơn, lại tuyên thuyết điều Như Lai đã chứng ngộ. Như Lai
thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Như Lai truyền
dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh.
Người gia
trưởng hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe
Pháp ấy. Sau khi nghe Pháp, người ấy sanh lòng kính ngưỡng Như Lai. Khi có lòng
tín ngưỡng, vị ấy suy nghĩ: "Ðời sống gia đình đầy những triền phược, con
đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất
khó cho một người sống ở gia đình có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ,
hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình". Sau một thời gian,
người ấy bỏ tài sản nhỏ hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà
con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình.
Khi đã xuất gia
như vậy, vị ấy sống thành tựu học pháp chánh hạnh, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát
sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh
phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, chỉ lấy
những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, sống thanh tịnh, không có trộm
cắp, từ bỏ tà hạnh, sống theo phạm hạnh, sống hạnh viễn ly, từ bỏ dâm dục hèn
hạ.
Từ bỏ nói láo,
nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không
lường gạt, không phản lại đối với đời, từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai
lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những
người này, nghe điều gì ở chỗ kia, không đến nói với những người này để sanh
chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến
khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân
hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp, từ bỏ lời nói độc ác, tránh
xa lời nói độc ác, nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông
cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời
nói phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý
nghĩa, nói những lời về Chánh Pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng
được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Vị ấy từ bỏ làm
hại đến các hột giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban
đêm, từ bỏ ăn phi thời, từ bỏ đi xem múa, hát, nhạc, trình diễn, từ bỏ trang
sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm và các thời trang, từ bỏ dùng giường
cao và giường lớn, từ bỏ nhận vàng bạc, từ bỏ nhận các hạt sống, từ bỏ nhận
thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái, từ bỏ nhận nô tỳ, gái và trai, từ bỏ
nhận cừu và dê, từ bỏ nhận gia cầm và heo, từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa
cái, từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai, từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình
làm môi giới, từ bỏ buôn bán, từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc, đo
lường, từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo, từ bỏ làm thương tổn,
sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Vị ấy biết đủ
với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng
mang theo (y và bình bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai
cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo biết đủ với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để
nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Vị ấy nhờ thành tựu
Thánh giới uẩn này nên hưởng được lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.
Khi mắt thấy
sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất
thiện pháp khởi lên; vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành
sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng... mũi ngửi hương... lưỡi nếm vị... thân
cảm xúc... ý nhận thức các pháp; vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ
tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham
ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên; vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì
ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên
hưởng lạc thọ, nội tâm không lỗi lầm.
Vị ấy khi đi
tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác,
khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, bình bát, thượng y đều
tỉnh giác, khi ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiểu tiện, tiểu
tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác.
Vị ấy với sự
thành tựu Thành giới uẩn này, với sự thành tựu Thánh hộ trì căn này, và với
Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như khu rừng,
gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi
đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng, tại chỗ nói trên,
và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát
ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không
sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu tình, gột rửa, tâm hết sân
hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng
hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ
bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm
hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không
phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.
Sau khi từ bỏ
năm triền cái làm ô nhiễm tâm, làm cho yếu ớt trí tuệ, vị ấy ly dục, ly pháp
bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh,
có tầm có tứ. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh
giác, thân cảm giác sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "xả niệm lạc
trú", chứng và trú Thiền thứ ba. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo xả
lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ
không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Ðoạn tận luân hồi: Giải thoát rốt ráo
Ðoạn tận luân hồi: Giải thoát rốt ráo
Khi vị ấy thấy
sắc bằng mắt, vị ấy không tham ái đối với sắc đẹp, không ghét bỏ đối với sắc
xấu, vị ấy sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri
tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nhờ chúng mà các ác bất thiện pháp của vị
ấy được trừ diệt, không có dư tàn. Như vậy từ bỏ (thuận nghịch), có cảm thọ nào
khởi lên: lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không
hoan nghênh, không tham trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh,
không tham trước thọ ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được
trừ diệt. Do dục hỷ của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do
hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt.
Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.Khi vị ấy nghe tiếng bằng
tai... khi vị ngửi hương bằng mũi... Khi vị ấy nếm vị bằng lưỡi... Khi vị ấy
cảm xúc bằng thân... Khi vị ấy nhận thức pháp bằng ý, vị ấy không tham ái đối
với pháp tốt, không ghét bỏ đối với pháp xấu. Vị ấy sống an trú niệm trên thân,
với tâm vô lượng. Vị ấy như thật tuệ tri tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Chính
nhờ chúng mà các ác, bất thiện pháp của vị ấy được trừ diệt, không có dư tàn.
Như vậy, vị ấy đoạn trừ (thuận nghịch) có cảm thọ nào khởi lên: lạc thọ, khổ thọ
hay bất khổ bất lạc thọ; vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham
trước thọ ấy. Vì vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không tham trước thọ
ấy, nếu có dục hỷ nào đối với các cảm thọ, dục hỷ ấy được trừ diệt. Do dục hỷ
của vị ấy diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt. Do hữu diệt nên sanh
diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự
đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
Kết luận
Này các
Tỷ-kheo, các Ông hãy thọ trì ái tận giải thoát này, được Ta nói một cách tóm
tắt, nhưng (phải nhớ là) Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đã bị mắc trong
cái lưới lớn của ái, trong sự rối loạn của ái. Thế Tôn thuyết giảng như vậy.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Bạn có thể dùng mã code dưới đây để chèn hình, video từ bên ngoài vào comment:
- Tặng hình : [img] link hình [/img]
- Gửi tặng video: [youtube] link youtube [/youtube]